Trên cõi đời nầy, cuộc sống con người không
có gì mạnh hơn mãnh lực tình yêu, đức tin và lòng ái quốc.
Khi người nữ bị tình yêu-tiếng sét ái tình- réo gọi, họ dám
sống chết vì lý tưởng cao đẹp, hy sinh cả thân mạng, của cải
bất chấp cả gian nguy. Không biết bao nhiêu thiên hùng ca,
những vần thơ dệt bằng nước mắt, những câu chuyện tình bi
thảm lưu truyền trong nhân gian, điển hình hay nhất là câu
chuyện nàng Mạnh Khương.
Câu chuyện tuy có tánh cách thần thoại nhưng rất thương
tâm. Đang cử hành lễ cưới thì quân sỹ triều đình xông vào
bắt chàng rể sung vào “đội dân phu” đi xây Trường Thành.
Mạnh Khương sau những năm thương nhớ người yêu, mòn mỏi đợi
chờ đã quyết định khăn gói lên đường tìm chồng. Nhưng trời
đất mênh mông, ngàn trùng trắc trở, biết đâu mà tìm. Mạnh
Khương không nản chí và cuối cùng thì biết được đơn vị của
chồng ở đâu?. Tưởng rằng xa cách nhiều năm, bao niềm nhớ
nhung sẽ được bày tỏ, nhưng số phận được an bài, một lần
chia tay là ngàn năm vĩnh viễn không thấy nhau. Đến nơi Mạnh
Khương mới biết tin người yêu của mình phần vì lạnh, phần vì
đói khát đã sinh bịnh mà qua đời. Buồn vì mất người yêu, nỗi
đau thương của nàng Mạnh Khương dâng trào qua khóe mắt, nàng
cứ khóc, khóc mãi đến 3 ngày đêm ròng rã và lạ thay nước mắt
nàng bỗng dưng biến thành trận mưa thật to, nước cuồn cuộn
chảy như thác. Một khoảng Trường Thành bị sụp đổ, và trong
khối đất đá ngổn ngang đó là thi hài chồng nàng. Dụng ý tác
giả muốn nói lên trong số đất cát 180 triệu khối nầy đã hòa
lẫn với mồ hôi và nước mắt của hơn 30 vạn dân phu.
Màn thứ nhất
Thùng thùng trống đánh ngũ liên
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.
Cảnh bắt lính, hay phục dịch ngày xưa. Khi tráng đinh, -tức
thanh niên, trai trẻ khỏe mạnh trong làng- đến tuổi phải
tòng ngũ thời gian 3 năm hay hơn, như nghĩa vụ “phục dịch” ,
trả nợ không công cho nhà vua mà toàn dân phải đáp trả theo
lệnh thiên triều đã ban thánh chỉ, bất biến không mảy may
một ly.
Dưới thời phong kiến chủ nghĩa, độc tài tàn bạo của nhiều vị
lãnh chúa, quan, vua. Tinh thần phong kiến đó in hằn sâu
trong tâm khảm người dân Trung Hoa từ già tới trẻ, nên sự
cưỡng bức thi hành nghĩa vụ phục dịch, người dân râm rấp
tuân thủ. Dù rằng bên cạnh đó họ ngại đi xa, rời bản làng,
thôn xóm, xa người thân, dù là phải tha hương cầu thực. Thế
nhưng...
Tráng đinh hay lính thú (hiểu như: private soldier) lúc từ
giã vợ con, người yêu, cha mẹ, thân bằng quyến thuộc, trên
vai đeo một đãi áo quần độc nhất, bước chân xuống “bến
thuyền” ngay đầu trạm của xã, ấp. Ngày xưa chỉ có xe ngựa,
xe bò, còn lại hầu hết là thuyền, bườm. Phương tiện di
chuyển duy nhất trên đường sông bắt buộc, trước cảnh chia
tay đầy bứt rứt.
Hàng đoàn người đứng dọc theo ven hai bên bờ kênh hay mé
sông. Kẻ lưng tròng ngoảnh mặt đi, hay rơi từng giọt nước
mắt ngắn, dài khép nép hoặc tiếng nỉ non tiễn đưa đầy vẻ áo
não...
Theo lệnh vua, lệ làng ai bất tuân phải rước lấy thảm họa có
thể đến mất mạng nữa không chừng!?.
Hoàn cảnh xã hội “quân chủ độc tài” độc tôn của những hôn
quân bạo chúa, hơn ba thiên niên kỷ qua, đặc biệt dưới triều
của Tần Thủy Hoàng lại càng nghiêm nhặt, gắt gao hơn trước.
Còn các vị lệ làng, hay quan trấn thủ địa phương chỉ biết
bắt tráng đinh nạp cho đủ số, đạt “chỉ tiêu” không hề cứu
xét hoàn cảnh cá nhân hay gia đình cá biệt vào lúc đó ra sao?.
Rồi một ngày kia:
Nào, bốn phương tám hướng: nghe đây..., nghe đây:
“Lệnh vua... ban ra thánh chỉ.
Tráng đinh trong thôn, xã, làng trên xóm dưới tuổi từ 18 trở
lên hãy ứng hầu, ghi danh vào “đội phục dịch” đi xây trường
thành gấp.
Ai bất tuân, ai lẩn tránh sẽ bị truy lùng, bị bắt đăng nạp
300 roi, trước nơi công cộng... Ai chống đối thượng lệnh sẽ
xử trảm, hành hình”.
Nghe đây, nghe đây: ...
Tiếng khua chiêng, giống trống: cắt ùm... beng, ùm... beng
vang rền, mỗi lúc lại dồn dã, gần hơn ngay đầu ngỏ, mọi
người đều ngẩn ngơ đón chờ sự gì sắp xảy ra. Toán quân hầu
phi ngựa của thiên triều, với hộ vệ tả hữu mang theo tấm
hoành phi màu huyết dụ riềng ren đề chữ “Chủ tướng” to tướng,
quân hầu hai hàng chễm chệ, vừa dừng chân đúng ngay cửa nhà
của gia đình họ La, nơi tụ hội đông người tổ chức lễ vu-qui.
Ngày vui của nàng Mạnh Khương và tân giai nhân đang cử hành
lễ dâng nhang đèn bên trong bàn thờ tiền đường, quan viên
hai họ vui vầy giao ước, quan khách, thanh niên trai tráng
đang tựu tập chúc mừng. Nào có ai ngờ đâu!, ngoài ngõ, thảm
trạng chia uyên, rẽ thúy ngày vui trong đời của nàng Mạnh
Khương đang đến cách bất ngờ...
*
* *
Năm 249, nhà Chu cáo chung, nhà Tần liên tục tiêu diệt 6
nước còn lại thống nhất Trung Hoa. Tần Thủy Hoàng bỏ chế độ
phong kiến và chia cả nước ra 36 quận thì hành chế độ hành
chánh trung ương tập quyền. Mỗi quận có quan Văn gọi là Thú,
quan võ là Ủy. Tại triều đình đặt ra Thừa-tướng (Thủ-tướng
ngày nay) xử lý dân chính.
Trong thời kỳ nầy đất nước Trung Hoa rất hùng mạnh vì
dùng gươm giáo cai trị muôn dân chúng, và lân bang, họ tuy
sợ nhưng không phục. Do đó, có những lực lượng nổi lên chống
lại. Tần Thủy Hoàng đã thi hành chánh sách “bàn tay máu”: ra
lệnh đốt sách, chôn học trò, đây là vết đen trong lịch sử
Trung quốc, sử sách ghi rành rành.
Tần Thủy Hoàng thống trị vào 221-210 trước Công nguyên, đặt
kinh đô tại Hàm-Dương, vị trí rất gần Tây An ngày nay. Ông
cũng đã tổ chức lại đất đai và dân chúng để phối hợp các
công việc của họ, thành lập một đội quân biết phục tùng và
kỷ luật cao. Ông rất cứng rắn trong việc áp dụng luật và
thành lập hệ thống chữ khá hoàn chỉnh, đơn vị trọng lượng và
hệ thống tiền tệ thống nhất.
Ngoài việc tổ chức cơ cấu hành chánh và đốt sách chôn
sống học trò để củng cố ngôi vị và phòng ngừa giặc rợ
(tribe) từ miền Bắc (có lẽ quân Mông Cổ rong rủi, thiện
chiến trên lưng ngựa chiến đấu- muốn tràn xuống vùng đồng
bằng phía Nam), Tần Thủy Hoàng bắt dân-phu, tù-tội xây thêm
và nối lại Vạn Lý Trường Thành với nhau. Sự thật Trường
thành đã được xây dựng từ hai triều vua trước, nhưng chưa
hoàn hảo. Tần Thủy Hoàng với quyết tâm nối kết thành lũy
thành dài hơn 6600 cây số.
Vào năm 1976, qua nhiều thập kỷ, khu lăng mộ khổng lồ đã
xây dựng dưới mặt đất của Tần Thủy Hoàng, nằm gần thành cổ
Xian, được nhà khảo cổ đã khai quật và khám phá thấy 8.000
pho tượng chiến binh đất nung, nằm gác cho khu mộ. Với khối
đất che phủ ngôi mộ chứa tiền bạc, khối lượng đồng xu lớn...
Trường Thành là một công trình gồm hai bức tường làm bằng đá
(đá xanh đục thành khối hình chữ nhật 0. 3 x 0.6 mét), ghép
lại không có vữa (hồ) liên kết, cao khoảng 10 met, ở giữa
trống rỗng làm nơi trú ngụ của binh lính. Xây trên những
chóp núi, chạy dài từ Gia-Du-Quan phía Tây cho đến
Sơn-Hải-Quan, phía Đông tổng cộng hơn 6 ngàn cây số, là kỳ
quan thế giới duy nhất.
Cứ mỗi 3 cây số là một tháp canh (bunker) và khoảng từ 50
đến 100 cây số là có một đồn bảo (tháp canh lớn- big
bunker).
Ngày xưa mỗi khi thấy giặc xuất hiện từ xa thì các lính
canh (guard) đánh trống báo hiệu chuyền nhau, rồi các đồn
bảo trên núi cao đốt lửa cho khói bay lên (nghe nói đốt lửa
có phân chó sói- làm cột khói trắng bay lên thẳng), báo động
về kinh đô Trường An cho triều đình biết để chuẩn bị.
Trường thành đây là Vạn Lý Trường Thành, còn Cam Tuyền
một đồn bảo cách Trường An khoảng 100 cây số thuộc tỉnh
Thiểm Tây ngày nay. Quân lính nổi lửa cho khói bay lên để
thông tin cho Trường An và Hàm Dương. Tín hiệu dùng thời xưa.
Trong Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn có câu:
Trống Trường Thành lung lay bóng nguyệt,
Khói Cam Tuyền mờ mịt thức mây.
Là biểu thị cho di chứng lịch sử thời loạn ly....
Màn thứ
hai
Bất đáo trường thành phi hảo hán
Câu nói lưu truyền trong nhân gian, ngụ ý đến Trung Hoa bao
la rộng lớn, nếu chưa đến Vạn Lý Trường Thành chưa thật là
hảo hớn. (Nhưng du khách thật sự, leo được lên chỏm núi cao
thì “đau háng!?”- phóng bút của người viết). Ngày nay, nhờ
có cầu treo nên câu trên như mất ý nghĩa...
Du khách có thể đi từ Trung tâm thủ đô Bắc
Kinh trên trục lộ có: các sứ quán ngoại giao, lăng Mao Trạch
Đông, Thiên An Môn.., đoạn đường dài 60 cây số đến Vạn Lý
Trường Thành. Ngược hướng Bắc hay xuôi Nam nhiều tụ điểm cho
du khách viếng thăm Vạn Lý Trường Thành dài 6600 cây số.
Có thể nói, đây là công trình đắc ý thể hiện
qua Tần Thủy Hoàng, một bạo chúa độc tài với đầu óc tự tôn,
cộng với ý đồ và tham vọng ngông cuồng đã làm một công việc
quá to lớn, hao tốn không biết bao nhiêu tiền của, sinh mạng
và tài sản của nhân dân.
Không biết bao nhiêu thiên hùng ca dệt bằng
nước mắt, những chuyện tình bi thảm lưu truyền trong nhân
gian điển hình nhất câu chuyện nàng Mạnh Khương:“Vạn Lý Tầm
Phu”. Câu chuyện tuy có tánh cách thần thoại song rất thương
tâm:
Đang cử hành lễ cưới thì quân sĩ triều đình xông vào bắt
chàng rể sung vào đội dân phu đi xây Trường Thành.
Mạnh Khương sau những năm tháng thương nhớ
người yêu, mòn mỏi đợi chờ đã quyết định khăn gói lên đường
tìm chồng. Nhưng trời đất mênh mông, trăm ngàn trắc trở biết
đâu mà tìm, Mạnh Khương không nản chí và cuối cùng thì biết
được đơn vị của chồng mình. Tưởng rằng xa cách nhiều năm,
bao nhớ nhung sẽ được tỏ bày, nhưng số phận đã được an bài,
một lần chia tay là ngàn năm vĩnh viễn không thấy nhau. Cuối
cùng nàng Mạnh Khương mới biết tin người yêu của mình phần
vì lạnh, phần vì đói khát đã sinh bịnh mà qua đời. Vì mất
người yêu, nỗi đau thương của nàng Mạnh Khương dâng trào qua
khóe mắt, nàng cứ khóc, khóc mãi suốt 3 ngày đêm ròng rã và
lạ thay nước mắt nàng bỗng dưng biến thành trận mưa rất to,
nước cuồn cuộn chảy như thác. Một khoảng Trường Thành bị sụp
đổ, và trong những khối đất đá ngổn ngang đó là thi hài
chồng nàng.
Câu chuyện thương tâm, nhưng chánh dụng ý
tác giả muốn nói trong số đất cát 180 triệu khối nầy đã hòa
lẫn với biết mồ hôi và nước mắt của hơn 30 vạn dân phu.
Phần lớn dân phu chết vì đói rét, lao động
quá kiệt sức không thể về lại quê hương cũ, đoàn tựu gia
đình, với người yêu...
Màn thứ ba
Mạnh Khương là gái giả trai,
Nàng thành người thiên cổ...
-Bẩm đức thượng công:
Quân canh vừa bắt được “thằng” nầy, là rợ hung nô, quân dọ
thám lẻn, trà trộn vào doanh trại, theo dõi việc làm và lấy
tin tức. Xin giải giao cho đức thượng công phân xử.
-Tả hữu đâu, quản cơ đâu?, mau đăng nọc đánh tên gian manh
cho ta một trăm roi ngay lập tức.
-Bẩm thưa đại nhơn tôn kính, hưởng ơn cao dầy.
Xin cứu xét cho con nhờ, vạn đội ơn đại nhơn...
-Con là nhi nữ thường tình, vượt dậm trường thiên lý, cải
trang thành nam giới với tên La-Tự-Thành. Nguyên ủy là nữ:
La Song-Nga, nổi danh Mạnh Khương thục nữ, quê làng Cam Túc,
thuộc tộc họ La nhiều đời phúc-túc, trà trộn theo toán quân
nô-dịch; tìm người yêu hơn ba năm biền biệt, lòng thương nhớ
năm dài mỏi mòn, thôi thúc không nguôi con tự cải trang khăn
gói lên đường...
-Chứ nào phải là rợ, là dọ thám quân... lòng con trong như
tờ giấy trắng không tỳ không vết, kiến văn lại hạn hẹp, kiếm
cung chưa thông. Nào dám điêu ngoa, con cam chịu xử trảm.
-Nữ quản cơ, vậy hãy cho khám xét “nàng” xem hư thật?
Ta là vị quan cương trực, thích trắng đen phân minh, lòng
bao dung hào hiệp lại dư thừa, láo lếu không tha mạng...
Xong dẫn ra trình báo ngay lập tức.
-Bẩm đức thượng công:
- Đúng nàng là nhi nữ, không sai một ly. Cốt cách trang nhã,
da dẻ mịn màng, ngực mông nở nang, chứng tỏ gia thế phúc-túc,
quý tướng, quý cách tiềm ẩn rành rành nào phải “bần nhân”.
Nàng đối đáp thông minh, nét bút hoa văn tuyệt hảo, lả lướt
như rồng bay phượng múa trong bạch thư tự khai.
-Tất cả lui quân, chỉ trừ nữ quản cơ -người trông coi nữ
giới- hiện diện vài nữ cận vệ, mau cho vây trướng che kín,
cởi bỏ xiêm y cho ta thưởng lãm “lộc trời” của nàng.
-Xin phép cho con tự thoát y, dáng điệu thục nữ uyển chuyển,
nàng bước qua phải, rồi sàng bên trái phơi bày gót ngọc cho
đại ân nhơn ngự-lãm...
-Ôi quả thật!, thiện căn, đúng là thiện căn.
Ta hoàn toàn tin, vậy hãy dẫn nàng vào trong.
-Quản nhu-người trông coi lương thực- hãy biệt đãi như
thượng khách, lấy lòng nhân mà trọng hậu nàng, vì cùng họ
La, cùng sắc tộc với ta...
Ngày tháng trôi qua, với lòng rộng lượng dư thừa của quan
cửu phẩm, thống lĩnh cả một vùng trời đất rộng hai muôn dặm.
Bậc đại nhơn hào hiệp muốn giúp nàng đạt sở
nguyện. Theo tấu chương (report) sau khi dò la trong toán
quân nô-dịch hơn 5.000 người, không ai có mang tên
Lý-Thế-Dân quê Cam Túc, nhưng còn họ Lý hàng muôn, hàng trăm...
Nữ quản cơ, báo tin cho nàng Mạnh Khương biết phải học võ
kiếm cung để tự phòng thân, mới hy vọng vượt đoạn đường vạn
cây số đầy gian nan trắc trở.
Xong qua kỳ tỷ thí tại đấu trường, nếu thắng
sẽ cho rời.
Nàng Mạnh Khương được toại nguyện:
-Con cuối đầu cảm tạ ơn đại ơn nhơn.
Xin bái tạ như nghĩa cử cứu mạng, tái tạo giúp con sớm toại
nguyện, khởi đầu hành trình vạn thiên lý.
Nàng được cải trang thành “thái tử” họ La là kinh-lược-sứ,
đi thanh tra (expert) công trình xây Trường thành còn xây
cất dở dang... Thay mặt cho quan cửu-phẩm, với ấn chỉ và hai
quân hầu hộ giá song hành, chu cấp quân lương đủ đầy....
Vượt chặn đường dài thiên lý, trời đất mênh
mông, đi đâu nàng cũng khéo dò la, thăm hỏi cuối cùng Mạnh
Khương mới xác tín, đúng người yêu của mình phần vì lạnh,
phần vì đói khát, lao lực đã sinh bịnh mà qua đời. Nơi an
nghĩ ngàn thu- chỉ là những hòn cuội đá chất thành đống, như
bao ngôi mộ khác. Cảnh vật thật điều hiu, hoang tàn phế lạnh,
không dấu tích của một nén hương, không một nải chuối lúc tạ
thế chăng!?.
Mộ bia ghi đích danh:”Lý-Thế-Dân chi-mộ”.
-Ôi hỡi!, duyên nghiệp người yêu vắn số, ngàn thu vĩnh viễn
chia tay. Từ đây tất cả vong hồn dân-phu xấu số, vất vưởng
theo thành vách Trường Thành nơi dừng chân trú ngụ...
Buồn vì mất người yêu, nỗi đau thương của
nàng Mạnh Khương dâng trào qua khóe mắt, nàng cứ khóc, khóc
mãi suốt ngày đêm ròng rã, quá cùng quẫn ngã lăn ra chết bất
tử.
Tiếng oan dậy đất trời, oán ngời tầng mây-
cái chết oan nghiệt của người yêu họ Lý, rồi từ đó người
thiếu nữ bạc mệnh:
Mỗi đêm đêm dù bầu trời âm-u đen tối, hay quang tạnh, tiếng
khóc kỳ lạ vang dội giữa thành vách Trường Thành, kéo dài từ
hơn ba thế kỷ nay. Tiếng than khóc là nổi lòng uất ức, ta
thán của người thiếu nữ trẻ thất chí vì người yêu...
Những người yếu bóng vía, thấy chập chờn có cảm giác lành
lạnh; nhất là đàn bà, trẻ con chỉ nghe người khác kể lại
cũng rởn tóc gáy, bủn rủn cả người rồi.
Chính đội tuần-phiên Trường Thành (patrolled
the Great Wall) kể rằng: nhất là vào những đêm trăng hạ tuần,
lại có mưa phùn lất phất, gió hây hây lạnh, họ thường thấy
bóng dáng mờ mờ một người thiếu nữ bạc mệnh xuất hiện khóc
nỉ non, có lúc nghe rõ, lúc văng vẳng, chính họ cầm vũ khí
lắm lúc cũng lấy làm hãi hùng muốn “són đái”.
Những đêm mưa từ chập tối, càng về khuya càng nặng hạt, càng
não nùng. Trong mưa có tiếng khóc như bên phải, như bên trái,
lúc xa, lúc gần sâu thẩm, càng sửng sốt gai ốc nổi khắp
người. Mỗi lần như thế họ phải thổi lên hồi tù-và thật dài,
bất thần bóng ma khiếp sợ biến mất; chỉ còn gợn khói trắng
mỏng mờ mờ vút lên không trung giữa canh trường.
Còn những người bạo gan hiếu kỳ cũng được
mục kích, đến sát gần bên chờ đợi nghe ngóng, họ nghĩ rằng
sự có mặt của người trần thì ma không dám hiển hiện. Đến giờ
Tý canh ba, vẫn không thấy động tĩnh. Nhưng từ lúc có tiếng
gà nhà ai đó cất tiếng gáy vang, quả nhiên bóng ma thấp
thoáng xuất hiện.
Dường như có bóng ma:”một người thiếu nữ
tuyệt đẹp, sang trọng mặc bộ đồ trắng rách tả tơi, tóc rũ
rượi dài với đôi mắt lồi, hiện hồn về trong đêm tối để than
khóc cho vơi nỗi đau khổ u-uất của nàng”.
Người dân địa phương cứ thêu dệt thành câu
chuyện ly kỳ, rùng rợn về: Nàng Mạnh Khương oan-hồn.
Quá linh hiển nơi nàng thường xuất hiện. Bùi
ngùi trong thương cảm, canh cánh đầy lòng của người dân địa
phương bèn khắc chạm vào vách thành Trường Thành hàng
chữ:”Mạnh Khương thiên cổ” đến nay hơn ba thiên niên kỷ, vẫn
còn dấu tích hiển hiện...
Hết
BÙI- THƠM-NGỌT |