| Anh hùng đừng hỏi xuất xứPhận má hồng lắm gian truân
 Quả đúng như lời Tố Quyên nói, 3 canh giờ 
					sau, huyệt đạo của Tây Môn Lộc được giải khai và hắn có thể 
					di động tay chân. Ngay sau khi được giải khai, hắn vội toạ 
					hành công, cố đề khí, với hy vọng mỏng manh, mong kịp thời 
					hồi phục công lực để khoát khỏi chốn kinh hoàng này. Nhưng 
					thất vọng thay, một chút sức lực trong người hắn cũng không 
					còn. Cử chỉ của hắn ngày càng khó khăn, tựa hồ như dùng hết 
					sức lực mới di động cơ thể, chân tay được. Hắn thở dài, bước 
					đến cánh cửa trước, và đúng như hắn dự định, cánh cửa ấy đã 
					bị đóng chặt từ thưở nào. Nếu như trước đây, chỉ một cái đá 
					của hắn cũng có thể đạp tan cánh cửa này, nhưng bây giờ, sức 
					lực của hắn như một lão già xế chiều, đi đứng cũng không 
					vững huống hồ là đá với đấm. Chán nản, hắn thờ thẫn bước về 
					phía cánh cửa sau.
 Cánh cửa không khoá, và khi hắn mở cửa ra, kinh hoàng thay, 
					hắn thấy vô số linh vị đặt trên một cái bàn thờ. Hắn cố tập 
					trung sức mắt mới đọc rõ những chữ khắc trên linh vị. Nào là, 
					Thập Tam Gia Võ Trang chi vị, Ngọc Trúc Nữ Nguyễn Thanh chi 
					vị, Ngọc Trần Đạo Nhân Lâm Mỗ chi vị, cứ thế hắn đọc xuống, 
					đó là vô số tên của những anh hùng có tiếng trong giang hồ 
					cho tới những tên họ của những người thường dân, nghèo hèn 
					vô danh tiểu tốt. Càng đọc, nét mặt Tây Môn Lộc càng xám lại, 
					đôi môi hắn run cầm cập, cơ thể hắn lảo đảo khịu xuống như 
					một thân xác vô hồn. Trí nhớ hắn đã hồi tưởng lại những tên 
					họ này, mà hắn tưởng cả cuộc đời này sẽ không còn ai nhắc 
					đến. Những người này là những người bị hắn sát hại, lăng mạ, 
					sỉ nhục, hiếp dâm, chiếm bóc tài nghiệp. Bề ngoài của hắn 
					như là một thương gia chanh chính, giàu có nứt vách nghiêng 
					thành, nhưng thật ra, sự nghiệp hắn có được ngày hôm nay là 
					từ bóc lột, tính mạng, thân xác, tài sản của những người có 
					tên trên linh vị kia mà thành. Bàn tay của hắn đã tẫm rất 
					nhiều máu, và chỉ tới bây giờ, khi sức lực cùng kiệt, tinh 
					thần suy nhược, hắn mới cảm thấy một phần nào hối hận những 
					chuyện hắn đã làm.
 
 Đọc tới tên trên linh vị cuối cùng, hắn thấy ở dưới đó có 
					một tời giấy, đề hai dòng chữ:
 “Hãy quỳ lạy những linh vị này. Tội chết sẽ giảm bớt đi cực 
					hình.”
 Tây Môn Lộc chợt cười to, rồi dùng tàn sức nói như hét:
 _Hahahaha, Tây Môn Lộc này, tuy người mang đầy tội nghiệt, 
					nhưng không phải là một kẻ sợ chết. Sự việc đã đến như vầy, 
					các người muốn chém thì chém, muốn giết thì giết, hà tất còn 
					bày những trò quỷ quái thần ma như thế này.
 
 Tiếng nói vang vọng khắp căn phòng, thậm chí có thể nghe dội 
					lại những âm thanh hắn vừa cất tiếng. Sau đó, căn phòng trở 
					lại yên lặng, tĩnh mịch, lạnh lùng tưởng như đây là một địa 
					ngục ma quỷ. Tây Môn Lộc, tuy nói thế, nhưng mục đích cũng 
					chỉ trấn an mình. Sau một hồi, không có cử động nào của bên 
					địch, hắn tức giận, đập xô những linh vị bày trang nghiêm 
					trên bàn thờ xuống, dùng chân đạp gãy những mộc vị ấy. Đập 
					đổ chán nản, hắn ngồi phịch xuống đất thở dài mệt nhọc. 
					Không khí trở nên âm u, mịt mờ, và hắn đã ngồi thế một thời 
					gian rất lâu, nhẩm đoán cũng có thể là một ngày đã trôi qua. 
					Cơ thể của hắn, càng lúc càng tạ, do mất qua nhiều tinh khí 
					trong lúc giao hợp với Nguyễn Tố Quyên, cộng thêm không được 
					ăn uống gì cả, làm tinh thần hắn suy kiệt, thậm chí có lúc 
					hắn muốn cắn lưỡi tự tử hoặc đâm đầu vô tường chết quách đi 
					cho rồi, nhưng cuối cùng, hắn cũng không có can đảm để làm.
 
 Cuối cùng, cánh cửa cuối phòng đã mở, ánh sáng chói chang từ 
					căn phòng kia, làm hắn chợt thấc giấc trong cơn ngủ, có hai 
					người đàn bà, nét mặt xấu xí, thân hình đồ sộ, tướng người 
					vạm vỡ bước đến bên Tây Môn Lộc. Một người trong tay cầm một 
					vật quái dị, nhìn thoáng vào thì giống như là một bộ quần áo, 
					nhưng nhìn kỹ thì giống như là một yên cương ngựa. Họ buộc 
					cái vật quái dị ấy vòng quanh người hắn, Tây Môn Lộc muốn 
					phản kháng, nhưng sức lực của hắn như chỉ đủ đễ gãi ngứa cho 
					người đàn bà kia. Sau khi buộc xong ‘cái yên cương ngựa ấy 
					vô người, họ buộc thêm một dây kéo ngay cổ hắn rồi kéo hắn 
					đi. Bấy giờ, Tây Môn Lộc mới vỡ lẽ trò hành hạ dã man mà hai 
					người đàn bà này đang vày vò trên hắn.
 
 Nguyên cái ‘yên cương ngựa ấy, phần trên buộc ngang lưng hắn, 
					còn phần dưới thì buộc vào hai tay, hai chân hắn, khiến tay 
					chân hắn, cong thằng lại, hai tay, hai đầu gối đều chống 
					xuống đất, y như tư thế của một con chó. Bộ yên cương ấy 
					khiến hắn, chỉ có thể bò mà đi, chứ không thể đứng lên đi 
					như con người được. Đôi mắt đỏ hoe, Tây Môn Lộc cảm thấy bị 
					sỉ nhục nặng nề. Hắn dù sao cũng là một tay đại đạo, đội lớp 
					da ngoài là một đại phú thương giàu có, đầy tiếng tăm, và 
					hơn thế nữa, là một con nhà võ chân chính mà nay lại là một 
					trò hề để hai người đàn bà quỷ ma này buộc đi như một con 
					chó không hơn không kém.
 
 Tây Môn Lộc , dùng tàn sức, cô níu lại, không chịu lết đi 
					một bước nào nữa. Nhưng khi hắn ngừng lại, người đàn bà kia 
					tay cằm sẵn một roi mây, đánh tét vào mông đít hắn, rồi hét:
 _Đi!
 
 Cây roi mây ấy khác với những cây roi mây thông thường, đó 
					là một cây roi đầy gai gốc, tưởng như được chuốt ra từ thân 
					của một cây hồng gai đầy nhọn sắc. Hơn thế nữa, sau cái quất 
					xuống, khi gai nhọn còn găm vào da thịt của Tây Môn Lộc, mụ 
					ấy còn kéo xuống, khiến gái nhọn rạch một lằn dài từ mông 
					xuống,rồi móc đi một phần thịt trên cái mông trắn hồng nhão 
					nhệ mỡ của Tây Môn Lộc, khiến máu chảy đầm đè, vết sâu có 
					thể nhìn thấy xương trắng phếu phào nằm bên trong. Tây Môn 
					Lọc đau đớn quá phải hét to như heo bị chọc tiết. Thậm chí 
					nếu gặp người khéo tưởng tượng, họ có thể ví tiếng hét ấy 
					như tiếng chó hú. Đau đớn, tủi nhục, Tây Môn Lộc, bịn môi, 
					toan cắn lưỡi tự tử, nhưng người đàn bà phía trước, như đã 
					biết ý định của hắn, đã điểm đi huyệt Khẩu Môn khiến lưỡi 
					hắn bị tê cứng lại, khiến hắn không cắn được lưỡi nữa. Mu ta 
					mở giọng cười nham hiểm rồi nói:
 _Đi, nếu không bị đánh đòn đó chó con!
 
 Rồi mụ ta lôi hắn đi sền sệt, như chẳng để ý xem cảm giác 
					của hắn ra sao. Người đàn bà sau lưng hễ thấy hắn ù lì một 
					chỗ là không tiếc tay quất xuống những roi găm điếng người. 
					Cực chẳng đã, Tây Môn Lộc đành phải bò đi không hơn gì một 
					con chó. Chẳng mấy chốc, họ đã đi được vài dặm đường, nhưng 
					đối với Tây Môn Lộc, chặng đường này dài bằng mấy chục dặm. 
					Rồi cuối cùng, họ dừng lại ở một khu đất trống. Mặt mày phờ 
					phạt, Tây Môn Lộc chợt nghe gịọng hai mụ ấy vang lên anh ảnh:
 _Bẩm cung chủ, tiểu súc sanh đã dẫn đến!
 
 Tây Môn Lộc ngẩng đầu lên, thì thấy người cung chủ mà hai mụ 
					gọi không ai khác hơn là Xuân Nương, tú bà của Hồng Lầu. 
					Xuân Nương vẫn nét đẹp xinh tươi, điềm nhiên hỏi:
 _Thế nào Tây Môn Lộc đại gia, ba ngày ba đêm ở Hồng Lầu, 
					chắc ngài đã hưởng được nhiều khoái lạc ấy nhỉ?
 
 Bấy giờ, mụ cầm roi mây đã hóa giải huyệt đạo ở Khẩu Môn nên 
					Tây Môn Lộc có thể nói chuyện. Hắn hừ một tiếng rồi gằn 
					giọng:
 _Đã biết gọi ta là đại gia, tại sao không cởi trói cho ta.
 
 Xuân Nương cười rộn rã. Và những người hiện diên khác đều 
					cười khẩy. Tiếng cười đầy chế nhạo và khinh bĩ hắn cùng cực. 
					Tây Môn Lộc tức mình rống:
 _Tại sao lại cười, bổn đại gia đã trả bộn tiền cho các ngươi, 
					vả lại, ta với Hồng Lầu các ngươi không thù không oán, tại 
					làm sao đối xử với ta như thế!
 
 Xuân Nương vẫn nụ cười mỉm trên mội, từ tốn nói:
 _Ấy Tây Môn đại gia chớ nóng giận, để tiện thiếp dẫn đến một 
					người tất đại gia sẽ hiểu rõ.
 
 Rồi mụ vẫy tay, một người con gái bước ra. Tây Môn Lộc nhận 
					ra, đó là người con gái áo đỏ trong bảy cô gái mặc bảy màu 
					cầu vồng đã từng giao hợp với hắn. Tây Môn Lộc ngơ ngác hỏi:
 _Ngươi là ai?
 
 Người con gái áo đỏ, ánh mắt căm hờn nhìn Tây Môn Lộc, móc 
					trong túi ra một cây trúc chạm trổ bằng ngọc thạch xanh biết. 
					Vừa nhìn cây ngọc trúc ấy, Tây Môn Lộc đã run lên sợ hãi, 
					giọng cầm cập ráng hỏi:
 _Ngọc Trúc Nữ Nguyễn Thanh là gì của ngươi?
 
 Giọng băng giá, nhưng không kém giọng độc địa, nàng đáp:
 _Là mẹ. Ngươi hài lòng chưa?
 
 Tây Môn Lộc lặng thinh không nói gì nữa. Ký ức hắn còn nhớ 
					rõ, có một lần, trong lúc đang ra tay sát hại Thập Tam gia 
					Võ trang chủ, Ngọc Trúc Nữ bất thình lình xuất hiện. Trận 
					chiến ác liệt xảy ra. Võ công và nội lực của Ngọc Trúc Nữ 
					vốn cao hơn Tây Môn Lộc gấp mấy trăm lần, nhưng vì bấy giờ, 
					Ngọc Trúc Nữ đang mang bầu sắp sanh, và trong lúc gần kết 
					liễu tính mạng hắn, nàng chợt quặn đau vì đứa bé sắp chào 
					đời. Tay chân rã rời, Ngọc Trúc Nữ khịu xuống bất chợt và mê 
					mang đi. Tây Môn Lộc thoát chết trong đường tơ kẻ tóc, lẽ ra 
					phải ra tay giết chết Trúc Ngọc Nữ ngay lập tức, nhưng vì 
					sắc đẹp của nàng quá đẹp, khiến hắn động tà dâm. Hắn bèn ra 
					tay triệt đứt tứ chi của nàng rồi hành cẩu trên thân xác 
					nàng. Hắn vĩnh viễn không quên được ánh mắt căm hờn của Trúc 
					Ngọc Nữ dòm hắn khi bị ô nhục. Ánh mắt ấy, nét đẹp của Ngọc 
					Trúc Nữ rất giống với người con gái áo đỏ này. Tây Môn Lộc 
					rùng mình, và có phần hối hận. Nếu hắn kịp để ý tới người 
					con gái này kỹ hơn một chút, thì hắn không tới nông nổi này. 
					Tiếc thay cho một gian hùng, suốt đời tính toán kỹ lưỡng, 
					không đi sai một nước cờ nào cả, mà nay chỉ vì một phút nông 
					nỗi, dục vọng che lờ con mắt, mà hắn phải thúc thân bị kẻ 
					địch hành xử dã man. Hắn hỏi một câu thẫn thờ:
 _Rõ ràng sau đó, ta đã giết chết nàng ta, vậy làm sao ngươi 
					còn sống sót?
 
 Xuân Nương cười khẩy đáp:
 _Đúng vậy, tuy ngươi đã giết chết mẹ đứa nhỏ, nhưng đứa bé 
					đã may mắn chào đời trong lúc nguy ngập ấy. Ngươi tưởng đã 
					giết chết mẹ nó, rồi bỏ đi, tuy vậy, Ngọc Trúc Nữ chưa chết 
					mà chỉ hắp hối. Nàng dùng tàn lực của nàng, để sanh ra đứa 
					trẻ này rồi mới trút hơi lìa đời. Trời xui đất khiến, nhằm 
					lúc ta đi ngang qua, phát hiện đứa bé và thây của người đàn 
					bà bạc mệnh này. Sau khi điều tra, biết rõ là ngươi làm, 
					nhưng ta không ra tay.
 
 Tây Môn Lộc ngơ ngác hỏi:
 _Ngươi sợ võ công của ta?
 
 Xuân Nương bĩu môi, khinh bỉ nói:
 _Ngươi tưởng vậy sao, Tây Môn Lộc? Sở dĩ ta không giết ngươi 
					chỉ vì giết ngươi chỉ làm bẩn tay ta thôi. Ta để dành cái 
					chết của ngươi cho đứa bé ấy. Ta nuôi dưỡng nó, để nó có dịp 
					ra tay trả thù cho mẹ nó, có vậy hồn thiêng của Ngọc Trúc Nữ 
					mới hả dạ nơi âm tỳ.
 
 Tây Môn Lộc chăm chăm nhìn vào Xuân Nương gằn giọng hỏi:
 _Xuân Nương, thật ra ngươi là ai?
 
 Nhâm nhi chén rượu, Xuân Nương khẽ ngâm một bài vè:
 Trấn thiên hạ lục đạo 
					vương
 Sắc, thích, kỳ, phi, bá, 
					thâu
 Tà môn ngoại đạo thuần 
					quy
 Lục cờ xuất, võ lâm 
					thuận.
 
 Chỉ nghe bài vè đó, Tây Môn Lộc đã run cầm cập gượng lắm mới 
					nói lên câu:
 _Người là Sắc Vương?
 Nói tới đó, Tây Môn Lộc khịu người xuống. Thần sắc hắn hoang 
					mang, bối rối. Tây Môn Lộc trước nay lừng lẫy gian hồ, không 
					biết sợ là gì nay bỗng trở nên ngoan ngoản như một con cún 
					con. Hắn nhắm mắt, chờ đợi hình phạt.
 
 Người con gái trong màu xiêm phục áo đỏ, chậm rãi đến bên 
					hắn. Nàng ta trói hắn vào một cây cột, rồi lột trần hết quần 
					áo trên cơ thể hắn. Xong, nàng ta nhẹ nhàng cuối người xuống 
					nâng niu con cặc của Tây Môn Lộc lên và bú liếm nó tựa như 
					là đang trân quý một của báu hiếm có trên thế gian. Chiếc 
					lưỡi cong cong, mềm mại khéo léo cứ vuốt vào những điểm 
					nhược trên đầu cặc của nam giới cộng thêm đôi môi đỏ mộng 
					luôn trề ra để con cặc hắn luôn đập vào bờ môi mềm ấy khiến 
					cho Tây Môn Lộc dù trong lúc sơ hãi cũng không chống nỗi sự 
					kích thích và con cu đã cương cứng lên.
 
 Khi đã thoã mãn với tầm cứng của con cặc, người con gái lấy 
					ra một chai mật ong, và dùng tay, xoa khắp dương vật của Tây 
					Môn Lộc, khiến hắn cảm thấy mát rượi vì hương ngọt của mật 
					ong, đồng thời cũng có một chút khó chịu, vì mật ong dày đặc 
					bỏ trên cu khiến nó trở nên keo đặc, dính siêt lại. Rồi nàng 
					áo đỏ lùi lại đằng sau, lấy từ tay một người đàn bà gần đó, 
					một cái lồng chuột, trong đựng hơn chục con chuột lớn nhỏ đủ 
					kiểu. Và nàng ta thả từng con một, từng con một lên người 
					Tây Môn Lộc. Cả cơ thể hắn giờ đây rung lên từng chập từng 
					chập một vì sợ. Hãy thử tưởng tượng, những con chuột cống 
					lông xù xám xịt, móng vuốt sắt nhọn, cái đuôi phe phẩy lờn 
					phờn trên da thịt hắn bò đi bò lại trên cơ thể hắn, và có 
					nhiều con còn bò trên khuôn mặt bảnh trai của hắn, nhe ra 
					hằm răng sắt nhọn như chuẫn bị cắn vào da thịt hắn, thì bảo 
					sao hắn không sợ.
 
 Rồi, có một con háu ăn, đã bò đến dái của Tây Môn Lộc, và 
					cắn tạp một cái. Tây Môn Lộc rú lên đau đớn. Cơn cặc vốn 
					đăng cương thẳng cong, bị mất đi một mảnh thịt ở quy đầu, để 
					lộ những đường gân ở đầu cu. Máu chảy phụt ra như một dòng 
					suối. Những con chuột khác hửi thấy mùi máu trộn lẫn với mùi 
					mật ong, và như có linh tánh sợ đồng bọn táp hết phần ăn của 
					mình, nên chúng vội xúm xít chạy đến thi nhau táp vào củ 
					thịt dồi ở phía đưới. Từng hàm răng nhọn, từng móng vuốt sắt 
					bến cứ thi nhau cào cắn vào của quý của Tây Môn Lộc, khiến 
					máu thịt văng rải khắp bãi đất. Tây Môn Lộc đau đớn, rung 
					lên cầm cập, nhưng tay chân hắn đã bị trói, miệng lại bị 
					điểm huyệt, khiến hắn muốn la thét, vùng vẫy cũng không được. 
					Đau đớn, sơ hãi khôn cùng, hắn ngất đi trong cơn đau dày vò 
					ấy.
 
 Trong cơn mê, Tây Môn Lộc cảm giác được, sau đó, những con 
					chuột đã bị xua đi, và có ai đó đã băng bó lại vết thương, 
					và hắn được uống một liều thuốc khiến cơ thể hắn khỏe lại. 
					Rồi một gáo nước dội vào mặt hắn khiến hắn tỉnh lại. Nhìn 
					chung quanh, vẫn khuôn cảnh bãi đồng hoang ấy, vẫn người con 
					gái áo đỏ đứng trước mặt hắn nhìn hắn với ánh mắt đầy căm 
					phẫn lạnh lùng. Xuân Nương vẫn ngồi trên bệ đài dòm xuống 
					hắn. Bà ta trầm tĩnh nói:
 _Đây chỉ mới là bắt đầu thôi Tây Môn Lộc. Chềt sớm thì quá 
					dễ dãi cho ngươi rồi. Hãy từ từ hưởng thụ đi.
 
 Sau khi Xuân Nương dứt tiếng, người con gái áo đỏ, tay cằm 
					dao găm, bước đến gần hắn, xẻo ra một miếng thịt trên bắp 
					đùi hắn. Tây Môn Lộc lại rú lên, ánh mắt hắn hằn học nhìn 
					người con gái ấy, ngụ ý nói, tại sao ngươi lại tàn nhẫn như 
					thế? Nhưng tựa hồ, cái nhìn ấy không đã động đến lòng trả 
					thù của người con gái ấy. Sau khi róc thịt hắn ra, nàng ta 
					tay bóc một bốc muối chọi vào vết thương, khiến hắn xót xa 
					vô cùng, cứ thế, nàng lóc thêm dăm ba miếng thịt và rải muối 
					lên, khiến cho hắn khổ sở đau đớn và lại thiếp đi. Nhưng 
					trong cơn thiếp hắn lại có cảm giác, có người nào đã băng bó 
					lại cho hắn, và cho hắn uống thuốc để cầm lại sự sống.
 
 Cực hình cứ diễn ra như vậy hơn ba ngày trời, Tây Môn Lộc đã 
					phải đối chọi cơn lạnh thấu xương của gió núi thổi vào, và 
					cái nắng khắt khe chói trên đầu hắn, vừa đói, vừa khác, và 
					khổ hơn nữa, hằng ngày cứ cách vài tiếng là người con gái đỏ 
					lại hành hạ, tổn thương lên người hắn. Tây Môn Lộc đã cảm 
					thấy sơ hãi cùng cục, hành hạ tuy đau đớn da thịt, nhưng cái 
					hành hạ tinh thần cũng không kém gian truân. Mỗi lần nhìn 
					thấy con dao, con chuột, con kiến lửa đặt lên người hắn, là 
					hắn rung lên sợ hãi, và miệng hắn lắp bắp van xin, như một 
					tên cặn bã trên xả hội van xin được chết:
 _Tôi xin cô nương, xin cô nương, giết chết tôi đi, tôi không 
					còn can đảm để sống nữa. Oái, đừng, đừng, Á á á………
 
 Tiếng khóc, tiếng kêu gào, tiếng rên rĩ, cứ như vậy kéo đến 
					chiều thứ ba, thì Tây Môn Lộc trở nên kiệt sức, không còn 
					gượng nổi nữa. Dù vậy, cõi lòng hắn trở nên thanh thảng lạ 
					lùng, tựa như con người sắp chết, sau khi qua cơn đau đớn, 
					linh hồn bắt đầu rời khỏi cơ thể, hoặc có thể nói, hắn đang 
					hấp hối sắp lìa đời. Và khi con dao cuối cùng của người 
					thiếu nữ áo đỏ chuẩn bị ghim vào tim hắn kết liễu sanh mạng 
					Tây Môn Lộc. Bất chợt, một hòn sỏi phùn phụt bắn ra nhắm 
					trúng tay cô gái áo đỏ, khiến con dao rớt khỏi long bàn tay, 
					làm cánh tay cô ta rã rượi đuối sức.Một chàng thanh niên 
					tuổi chừng đôi mươi, mặt mày khôi ngô, dáng người to cao, 
					lực lưỡng bỗng xuất hiện giữa hiện trường, hắn chấp tay vòng 
					lễ và nói:
 _Cõi trời đất bao la, tuy thiên hạ lấy chữ hiếu đi đầu, 
					nhưng ông trời có đức háo sinh, Khổng tử dạy người nên bao 
					dung, Phật gia lại khuyên ta lấy ân báo oán, hà tất cô nương 
					lại tạo nghiệt cho chính mình. Ta đi ngang nay tình cờ nghe 
					được câu chuyện, lại thấy người này đã chịu đủ nghiệt chướng 
					hắn nên có, nên ta đứng ra mong cô nương tha chết cho người 
					này.
 
 Cô gái áo đỏ cười hừ, rồi cất giọng lạnh lùng:
 _Mày là thằng nào, bố láo bố xước đến đây can thiệp vào. Hãy 
					cút đi bằng không đừng trách bọn ta ác độc với mày.
 Người thanh niên nhướng cao đôi mi, sằn giọng đáp:
 _Ta tới đây khuyên cô với long tốt và người này ta phải mang 
					đi là cái chắc. Các người có giỏi thì làm gì nào?
 
 Người thiếu nữ áo đỏ giận rung lên, nàng vuốt ngực giằn cơn 
					thịnh nộ, quay về Xuân Nương, chấp tay thưa:
 _Bẩm sư phụ, xin cho con giải quyết tên tặc tử nà ạ!
 
 Xuân Nương mắt nhìn người con gái áo đỏ, và nhìn lại người 
					thanh niên, rồi gật đầu. Chỉ đợi vậy, người con gái áo đỏ, 
					rút toát gươm bên hông, phát chiêu ‘Tây Thi nâng gương’ toạ 
					thế và sử dụng ‘Việt Nữ Kiếm’ ào ạt tấn công gã thanh niên 
					sinh sự này. Bài kiếm này được phổ biến khắp thiên hạ, nhưng 
					tùy công phu và cách sử dụng uyển chuyển của từng người mà 
					biểu hiện sự lợi hại của đường kiếm pháp ấy. Có thể nhìn 
					đường kiếm của người con gái áo đỏ này, người kiếm thủ có 
					thể thấy rằng nàng đã luyện tới mức tối thượng của bài kiếm 
					long danh thiên hạ đây.
 
						
							| Việt nữ kiếm từ đâu mà ra? Vâng thưa, nó được sáng 
							tác bởi một người con gái Việt từ thời Việt Vương 
							câu tiễn. Một hôm, Việt Vương Câu Tiễn hỏi tướng 
							quốc Phạm Lãi: _Ta có ý muốn báo thù Ngô Vương Phù Sai, thủy chiến 
							phải dùng thuyền, lục hành thì phải dùng xe. Xe 
							thuyền muốn dùng được đều phải dựa vào các loại binh 
							khí (binh nỗ). Ngươi là mưu sĩ của quả nhân, có cách 
							gì giúp ta được không?
 Phạm Lãi đáp:
 _Thần nghe nói người xưa khi không chinh chiến thì 
							phải tập luyện, thao dợt đội ngũ, chỉ huy tiến thoái. 
							Lành hay dữ cũng đều do công phu mà thành. Nay nghe 
							tại nước Việt ta có một cô gái còn trẻ (xử nữ), ở 
							tại rừng phía nam, cả nước ai ai cũng khen ngợi. Xin 
							đại vương mời cô ta đến gặp xem sao.
 Câu Tiễn đồng ý sai sứ đi mời xem cô gái hỏi xem có 
							thể chỉ dẫn về kiếm kích hay chăng. Cô gái liền đồng 
							ý đi lên miền bắc để hội kiến với Việt Vương, trên 
							đường gặp một ông già, tự xưng là Viên Công. Viên 
							Công hỏi:
 _Ta nghe nói nàng giỏi kiếm thuật, muốn xem thử ra 
							sao?
 Cô gái đáp:
 _Thiếp quả không dám dấu, xin ông cứ tự tiện.
 Viên Công bèn nhổ một cây trúc Lâm Ư, một nửa đã khô, 
							nửa kia gãy ra rơi xuống đất. Cô gái liền chộp lấy. 
							Viên Công cầm cành tre đâm cô gái, cô gái liền gạt 
							ra rồi nhân đó tấn công vào. Tấn công ba lần, vào 
							sát người giơ gậy đánh Viên Công. Viên Công vội nhảy 
							vọt lên cây, biến thành một con vượn trắng chạy mất. 
							Cô gái lại tiếp tục đi gặp Việt Vương.
 Việt Vương hỏi:
 _Đường lối đánh kiếm là như thế nào?
 Cô gái đáp:
 _Thiếp sống ở trong rừng sâu, lớn lên chung quanh 
							không có ai nên không theo học đường lối nào cả, 
							cũng chưa từng đi đến nước nào khác. Thiếp bản tính 
							thích đánh nhau, nên luyện tập ngày đêm không ngừng 
							nghỉ, chẳng được ai dạy dỗ mà tự mình nghĩ ra thôi.
 Việt Vương hỏi:
 _Thế lối đánh đó ra sao?
 Cô gái đáp:
 _ Lối đánh kiếm đó rất tinh vi mà nhiều biến hoá (thậm 
							vi nhi dịch), ý tứ thì huyền bí mà sâu xa (thậm u 
							nhi thâm). Đường lối có phép tắc, lại bao hàm cả âm 
							dương. Bên kia mở thì bên này đóng, bên này xuống 
							thì bên kia lên (khai môn bế hộ, âm suy dương hưng).
 Phàm việc chiến đấu bằng tay, tinh thần bên trong 
							cần phải vững vàng (nội thực tinh thần), dáng vẽ bên 
							ngoài thì cần phải nhàn nhã (ngoại thị an dật), 
							thoạt trông thì hiền lành như đàn bà tử tế mà khi 
							xông lên thì như con hổ gặp nguy (kiến chi tự hảo 
							phụ, đoạt chi tự cụ hổ).
 Khi thủ thế thì ngưng khí mà chờ đợi, theo thần mà 
							thay đổi (bố hình hầu khí, dữ thần cụ vãng) theo sát 
							địch thủ như bóng mặt trời, ra tay thì nhanh như thỏ 
							chạy, đuổi theo như hình với ảnh, chập chờn thấp 
							thoáng. Hô hấp tới lui, tránh ra xa ngoài tầm của 
							địch, dùng đúng phép để chặn đường, khi ngang khi 
							dọc, khi thuận khi nghịch, khi chính diện, khi truy 
							kích tất cả đều không có một tiếng động.
 Nếu được như thế thì một người có thể chống với trăm 
							người, trăm người có thể chống với vạn người. Nếu 
							đại vương muốn thí nghiệm thì thiếp sẵn sàng làm 
							ngay.
 
 Việt vương mừng rỡ, ban cho thêm một chữ ‘nữ’ nên 
							gọi là Việt Nữ. Lại sai năm đội trưởng giỏi nhất ra 
							học để đem về dạy cho quân sĩ. Thành thử thời đó 
							người ta gọi đó là Kiếm Pháp của Công Chúa nước Việt 
							(Việt Nữ chi kiếm) (Trích nguyên bài Việt Nữ Kiếm từ 
							đâu mà ra của Nguyễn Duy Chính).
 |  Mặc dù ‘Việt Nữ Kiếm’ lợi hại như vậy, và 
					nàng thiếu nữ đã xử dụng tới mức thâu phát tùy ý, nhưng mặc 
					nàng đâm chém, bổ phạt kiểu nào, đường kiếm vẫn không xâm 
					phạm được tà áo của người thanh niên này. Chàng ta cứ ung 
					dung lạng giữa vào đường kiếm, tránh né nó trong đường giây 
					kẽ tóc. Thuật tránh né của chàng hết sức độc diệu, bởi thông 
					thường khi tránh né những chiêu tấn công của địch, đa số, 
					các tay võ thuật đều lùi lại, hoặc ra chiêu thức chống lại, 
					nhưng đằng này, chàng trẻ này cứ lao tới theo mũi kiếm, 
					đường kiếm từ trái qua phải, thì chàng cũng theo sát lấy nó 
					từ trái qua phải. Điều hay của chàng là tuy cùng di động 
					cùng hướng, nhưng người ngoài không cách nào phân biệt ra 
					được nàng chém xuống trước, hay chàng né xuống trước mà chỉ 
					có thể nó song song với nhau.
 Thấm thoát đã trao đổi qua trăm chiêu, người con gái áo đỏ 
					đã thấm mệt nhoài và ngán trước tài nghệ siêu quần của chàng 
					trai này, bèn vung ra chiêu tối độc của Việt Nữ Kiếm là 
					‘Nhất kiếm trảm Bạch Viên’. Muôn ngàn mũi kiếm phát toé 
					tưởng chừng không lối thoát, trăm hư nhưng lại nhất thật, 
					nàng này dùng hết sức phi thân chỉa ngay yết hầu chàng thanh 
					niên này đâm vào. Người thanh niên cũng không phải tay vừa, 
					chàng mỉm cười, đứng tro như một pho tượng gỗ, và chỉ khi 
					trăm hư đã hết, nhất thật đang phi tới, thì chàng hú một 
					tiếng, đề tụ chân khí, nhúng chân phi lùi một bước dài. Một 
					người bay tới, một người phóng lùi, chiêu vừa dừng thì người 
					cũng hết lùi. Khoảng cách của kiếm và người cũng chỉ cách 
					nhau vài ly. Thế là ‘Việt Nữ Kiếm’, một bài kiếm lừng danh 
					của đất Việt đã được phá giải bởi một thân pháp ảo diệu 
					huyền xảo. Âu người chế kiếm pháp là một người thiếu nữ vô 
					danh thì trăm năm sau được phá giải bởi một người thanh niên 
					vô danh cũng không gì là lạ.
 
 Người con gái sau chiêu ‘Nhất kiếm trảm Bạch Viên’ ấy, lùi 
					lại vài bước kêu to:
 _Lục vị sư muội, hãy cùng ta kết thành ‘đồng sanh cộng tử 
					thất kiếm trận’ đi. Quyết giết thằng lỏi này và gã già kia 
					thì tâm kết ta mới giải nổi.’
 
 ‘Vâng’, sáu mũi kiếm liên kết với cây kiếm của nàng áo đỏ 
					tức thời phóng ra, tạo thành một làn cầu vồng toả ra ập 
					xuống gã thanh niên. Một bầu kiếm khí uy lực trầm trọng tỏa 
					ra bao phủ đấu trường khiến người chung quanh cảm thấy nghẹt 
					thở lo cho chàng thanh niên này.Dây là một kiếm trận tuyệt 
					tác nhất do Xuân Nương sáng chế. ‘Việt Nữ Kiếm’, ‘Đồng Sanh 
					Cộng Tử thất kiếm trận’, và ‘Hấp Dương Bổ Âm Nhiếp Tinh đại 
					pháp’ là ba môn tuyệt thế của bà đã làm quần hùng sợ hã và 
					tôn xưng bà là một trong những ma đầu kiệt xuất nhất của tà 
					đạo. Kiếm trận tổng kết bao nhiêu tài học bà lấy được của 
					anh hùng trong thiên hạ hiến dâng cho bà để đổi lấy một cuộc 
					mua vui trong khoảnh khắc. Dựa vào nguyên tắc của tạo hóa, 
					cầu vồng sau mưa, bảy màu hợp một triền miên không dứt, dù 
					người biết là bảy cây kiếm đó, nhưng khi đối đầu chỉ là một 
					cây, mang theo sức của sáu cây kia họp lại. Chiêu liền chiêu, 
					hoặc địch chết trước hoặc bảy tỉ muội kiệt sức mà chết. Kiếm 
					trận đã phát, không thể dừng và đó cũng là lý do Xuân Nương 
					gọi nó là Đồng Sanh Cộng Tử thất kiếm trận.
 
 Trận kiếm vừa phóng, gã thanh niên đã tái hẳn nét mặt, không 
					còn vẻ ung dung như lú ban đầu nữa, vội rút trong người ra 
					một khúc côn thiết, bấm vào nút công tắc ở giữa cây côn, thì 
					xoẹt, một khúc côn ngắn vốn chỉ để gọn trong bọc áo, bỗng 
					chốc biến thành một cây côn dài tầm ngang vai. Một đầu thì 
					như một cái móc sắc, đầu kia thì như một cái xẻng nhỏ. Trước 
					sự ngạc nhiên của mọi người về món binh khí ngộ nghĩnh của 
					mình, gã thanh niên kia chổng đầu xẻng xuống đất, xúc ra một 
					mảnh đất, rồi dùng cái móc sắc hất miếng đất đó lên, rồi 
					dùng lại cái đầu xẻng đập vào mảnh đất ấy khiến nó như một 
					phi tiễn nhắm giữa làn cầu vồng mà lao vào.
 
 Dĩ nhiên như đã nói trước, kiếm trận này tuy bảy nhưng cũng 
					chỉ có là một, nên dù một hay một trăm miếng đất cũng chỉ có 
					một cây kiếm tựu công lực của bảy nàng kia mà chống đỡ. Rõ 
					ràng gã thanh niên này muốn biến trận đấu thành tỉ đấu công 
					lực. Nhưng sức một người thì làm sao chống lại bảy, nên 
					chẳng bao lâu những miếng đất bắn vào kiếm trận, mỗi lúc một 
					chậm và yếu bớt. Biết là thời cơ, bảy nàng rú lên một tiếng, 
					xông vào tính bầm nát người thanh niên này. Nhưng cũng vào 
					lúc nguy ngập ấy, bỗng thấy thân hình của gã thanh niên ấy 
					như một mũi tên chui tọt xuống lòng đất biến mất. Cả ám ùa 
					chạy lại coi thì thấy nơi gã chui xuống là một cái hố chỉ 
					chừng một trượng nhưng không hiểu từ đâu đả có một đường hầm 
					sẵn đó và chàng thanh niên này đã theo đường hầm ấy biến mất.
 
 Trong lúc mọi người còn đang ngạc nhiên thì ‘ầm’ một tiếng 
					nổ lớn, từ dưới phần đất gần chỗ Tây Môn Lộc bị một vật nổ 
					nào đó khiến đất từ dưới bắn lên tạo nên một lỗ hang và gã 
					thanh niên từ lỗ ấy bắn lên, nhanh tay cắt dây trói cho Tây 
					Môn Lộc. Rồi, chàng ta cho nổ một trái bom hơi, chỉ thấy 
					khói mịt mù tỏa ra, và khi mọi người định thần nhìn kỹ mọi 
					thứ chung quanh thì gã thanh niên vô danh lẫn Tây Môn Lộc đã 
					biến mất rồi. Mọi người nhìn nhau giận sôi ruột, rồi nhìn 
					lên ghế đầu chờ lịnh của chủ nhân, thì thấy Xuân Nương ngáp 
					dài, rồi bà ta cất bước về phòng, và Tố Quyên đứng kế bên bà 
					cũng đã không còn đó, tạo nên một bí ẩn không giải thích 
					được trong lòng mọi người.
 
					(Hết Phần 2 ... Xin mời đón xem tiếp
					Phần 
					3)
 |