Một
buổi tối, tôi ngủ gà ngủ gật trên một cuốn tiểu
thuyết. Nhà tôi đã lên trên lầu. Tiếng then cài
cánh cửa ra vào báo cho tôi biết là những người
giúp việc đã lui về. Tôi còn chờ thêm chút nữa rồi
mới đứng lên khỏi ghế. Đúng vào lúc đó, tiếng chuông
vang lên.
Tôi nhìn đồng hồ: 11giờ 45. Muộn thế này thì
chỉ có thể là khách, một ca bệnh sẽ làm tôi phải
thức thâu đêm. Hơi cáu kỉnh, tôi ra phòng ngoài
dể mở cửa: Sherlock Holmes
” A Watson!“ Anh reo lên. ”Tôi đến thăm quá muộn“.
- Có gì đâu. Vào đi chứ!
- Anh tỏ vẻ ngạc nhiên... Anh có thể cho tôi
ngủ nhờ dem nay không?
- Sẵn sàng. Anh ăn tối?
- Không, xin cảm ơn, tôi đã dùng rồi, ở ga Waterrloo.
Tôi đưa cái túi đựng thuốc cho anh. Anh im lặng
hút. Tôi biết rõ là chỉ có một vụ quan trọng mới
có thể đưa anh tới dây vào một giờ muộn như vậy.
Vậy là tôi kiên nhẫn chờ anh vào chuyện.
- Ngày mai anh tới Aldershot được không?
- Tôi nhờ một bác sĩ bạn thay tôi chăm sóc các
bệnh nhân.
- Tốt lắm! Tôi muốn đáp chuyến tàu mười một giờ
mười ở ga Waterloo.
- Rất thuận tiện cho tôi.
- Vậy thì, nếu anh chưa buồn ngủ, tôi xin tóm
tắt những sự việc và những gì cần làm.
- Trước khi anh tới, tôi đã ngủ gà ngủ gật nhưng
bây giờ thì hoàn toàn tỉnh táo.
- Đó là vụ ám sát đại tá Bát-cơ thuộc sư đoàn
Royal Mallows ở Aldershot. Sự việc xảy ra cách
đây hai ngày.
”Royal Mallows là một trong những trung đoàn
ái Nhĩ Lan nổi tiếng trong quân đội Anh. Tối thứ
hai vừa qua, trung đoàn đặt dưới quyền chỉ huy
của đại tác Giêm Bát-cơ, một lính già can đảm
đã được lên lon nhờ vào lòng dũng cảm. Bát-cơ
lấy vợ khi ông còn là trung sĩ. Ông kết hôn với
cô Nancy, con gái trung - sĩ. Ông kết hôn với
cô Nancy, con gái trung - sĩ trưởng - đội trong
cùng đơn vị. Vợ chồng Bát - cơ đã thích nghi mau
chóng với địa vị mới của họ. Bà vợ sống ăn ý với
các bà vợ sĩ quan cũng như chồng bà đối với các
bạn đồng đội. Tôi xin thêm bà là một phụ nữ rất
đẹp và cho mãi đến bây giờ, sau ba chục năm lập
gia đình, sự xuất hiện của bà còn gây ấn tượng
mạnh.
”Thoạt nhìn, cặp vợ chồng này đã được hưởng một
hạnh phúc hiền hoà. Tôi đã đến hỏi ông thiếu tá
Mã - phi, thì ông này đoán chắc với tôi là ông
chẳng bao giờ thấy có sự bất hoà trong gia đình
đó. Tôi hỏi ông cặn kẽ hơn. Thiếu tá nói rằng
sự gắn bó của ông Bát - cơ đối với vợ thì lớn
mạnh hơn là sự gắn bó của bà Bát - cơ đối với
chồng. Nếu phải xa vợ trong một ngày, ông rất
buồn phiền; nhưng bà vợ thì không chứng tỏ một
sự mãnh liệt đến thế. Dẫu sao, trong trung đoàn,
họ vẫn được coi như là một cặp vợ chồng lý tưởng.
”Dường như là đại tác Bát cơ có một tính khí
khác thường. Bình thường, ông là một quân nhân
già, vui tính, hăng hái. Nhưng đôi khi ông cũng
hung bạo và thù hằn. Tuy vậy, bà vợ không bao
giờ chịu đựng những tật xấu đó. Có mọt điều khác
là: theo định kỳ, một tâm trạng gì đó như trầm
uất lại giáng xuống ông. Viên thiếu tá mà tôi
hỏi chuyện đã ghi nhận điều đó và họ đã lấy làm
ngạc nhiên. Nó theo ông thiếu tá thì nụ cười biến
mất trên mặt ông Bát - cơ tựa hồ như có một bàn
tay vô hình đã xua đuổi nó. Và các hiện tượng
đó xảy ra trong những buồi họp mặt xã giao cũng
như tại bàn ăn của sĩ quan ở đơn vị. Có khi trong
nhiều ngày liên tục, ông như bị giày vò bởi sự
ưu sầu đen tối nhất.
Sư đoàn Royal Mallows hạ trại tại Andershot từ
vài năm qua. Các sĩ quan lập gia đình thì ngủ
ngoài doanh trại. Ông đại tá đã chọn một biệt
thự, cách trại bắc chưa tới bốn trăm mét, nhưng
mặt nhà phía tây cách đường cái hai mươi lăm mét.
Gia nhân gồm có bác xà ích và hai người hầu gái.
Vợ chồng Bát-cơ không con, rất ít khi tiếp khách
trong nhà. Tóm lại, có năm người sống trong biệt
thự đó.
”Bà Bát - cơ là một tín đồ Thiên Chúa Giáo. Bà
rất bận rộn với CLB Thánh Georges và hết lòng
với việc lo cấp quần áo cho những người nghèo
trong vùng. Tối hôm đó, một buổi họp được khai
mạc vào lúc 8 giờ. Bà vội vàng ăn bữa tối để kịp
đi họp. Khi rời khỏi nhà, bà báo cho chồng biết
là bà sẽ không vắng mặt lau. Theo lời chúng của
người xà ích, bà đón một cô láng giềng còn trẻ
Ma-ri, rồi cả hai cùng đi. Buổi họp kéo dài bốn
mươi phút. Tới chín giờ mười lăm phút, bà cho
ngừng xe để cô gái xuống trước cửa và về nhà cô.
”Ngôi biệt thự của đại tá có một căn phòng được
dùng làm phòng khách nhỏ, có cửa hướng ra ngoài
đường. Từ bên ngoài, muốn vào phòng đó phải băng
qua một bãi cỏ tròn, đường kính ba mươi mét. Nó
được ngăn cách với con đường băng một bức tường
thấp, phía trên có gắn lưới sắt, bà đại tá đã
vào nhà qua ngả đó. Bà thắp đèn và gọi chuông
rồi sai cô hầu phòng đem tới một tách trà: đó
là điều trái ngược với những thói quen của bà.
Ông đại tá ở lại trong phòng ăn; biết vợ mình
đã về nhà, ông đi sáng phòng khách nhỏ để gặp
bà. Bác xà ích trông thấy ông đi ngang qua gian
tiền sảnh rồi vào trong đó.
Mười phút sau khi được lệnh, cô hầu phòng đem
trà lên cho bà chủ, cô ngạc nhiên nghe ông chủ
và bà chủ cãi nhau kịch liệt. Cô gõ cửa, không
có tiếng trả lời. Cô muốn mở cửa nhưng cánh cửa
đã bị khoá từ bên trong. Cô hối hả chạy xuống
bếp, báo động với bà bếp. Thế rồi hai người đàn
bà cùng bác đánh xe vào trong gian tiền sảnh,
gióng tai lên mà nghe cuộc cãi lộn. Cả ba người
đều nhất trí rằng họ chỉ nghe thấy có hai giọng
nói: giọng của ông đại tá và của bà vợ. Những
câu của ông Bát-cơ thì thô bạo, nói với giọng
thất thanh, khiến người nghe không hiểu được.
Còn những câu nói của bà Bát cơ thì lại còn ác
liệt hơn nữa: Ba người giúp việc rõ ràng:“Anh
là một thằng hèn!“ Bà không ngớt lặp đi lặp lại
câu đó. Và bà còn nói: Biết làm sao bây giờ? Hãy
trả lại cho tôi được tự do! Không bao giờ ta còn
có thể thở chung một bầu không khí với mi! Đồ
hèn!“ Bất chợt người đàn ông hét lên một tiếng
khủng khiếp rồi tiếp đó là tiếng đổ ngã, tiếng
thét xé tai của bà chủ. Bác đánh xe lao mình vào
cánh cửa, cố sức bật nó ra. Bên trong những tiếng
thét nối tiếp nhau. Người đánh xe không phá được
cánh cửa và hai người tớ gái lại quá lo sợ nên
chẳng giúp được gì. Một ý kiến chợt loé lên trong
trí bác. Bác bỏ ra ngoài, đi vòng ngôi nhà, ngang
qua bãi cỏ trên đó có mở ra cánh cửa sổ sát đất.
Cửa mở rộng, bác vào trong phòng khách nhỏ. Bà
chủ đã ngưng kêu gào. Bà nằm im trên đi-văng;
ông đại tá thì hai chân vắt ngang trên cái tay
dựa của ghế bành, đầu gục xuống đất; ông chết
trong một vũng máu.
”Người đánh xe định mở cửa ra. Nhưng chìa khoá
không có trong ổ khoá và cũng không thấy để ở
đâu trong căn phòng. Vậy là bác lại nhảy qua cửa
sổ sát đất, đi mời một cảnh sát và một y sĩ, rồi
trở lại. Bà Bát - cơ được chuyển sáng phòng riêng
của bà, vẫn còn hôn mê. Thi hài ông đại tá được
đặt nằm dài trên ghế trường kỷ. Và người ta tiến
hành cuộc điều tra.
”Vết thương trên người nạn nhân là một vết đứt
dài bảy centimét ở phía sau đầu, được gây ra bởi
một loại hung khí có mũi nhọn. Trên sàn nhà, gần
bên xác chết, người ta tìm thấy một thứ như cây
gậy ngắn bằng gỗ rắn, có một cái cán bằng xương:
Ông đại tá có một bộ sưu tập lớn những khí giới
mà ông đã đem về từ nhiều Quốc gia khác nhau,
tại những nơi mà ông đã tham chiến. Cảnh sát cho
rằng cây gậy đó là một trong những vũ khí sưu
tập của ông. Nhưng các gia nhân thì nói là trước
đó, họ chưa từng trông thấy nó. Cảnh sát không
khám phá ra được điều gì khác. Và đây là việc
quái lạ mà chưa ai có thể giải thích được: trên
người bà Bác - cơ, trên người nạn nhân, cũng như
ở bấc cứ chỗ nào trong phòng khách nhỏ, người
ta không thể tìm thấy cái chìa khoá. Cần phải
gọi một người thợ khoá từ Aldershot tới để mở
cánh cửa ra.
Trường tình hình bế tắc như vậy, thiếu tá Mã
- phi mời tôi xuống Aldershot để phụ giúp cảnh
sát.
”Trước khi quan sát căn phòng, tôi thẩm vấn nhiều
gia nhân, nhưng không thâu đạt được gì hơn là
những điều mà tôi vừa trình bày với anh. Tuy nhiên,
cô hầu phòng có cung cấp cho tôi một chi tiết
đáng chú ý: số là khi nghe tiếng cãi cọ, cô ta
xuống bếp và đi lên cùng với hai người đầy tớ
khác. Nhưng cô nói rằng lúc đầu, khi chỉ có mình
cô, những giọng nói của ông bà chủ bị nghẹt đến
mức cô gần như chẳng thể nào hiểu được điều gì
và rằng chính là do những ngữ điệu nhiều hơn là
những tiếng nói mà cô hiểu ra rằng hai người đang
cãi nhau. Tôi dồn dập đặt nhiều câu hỏi. Sau chót
cô nhớ rằng có hai lần cô đã nghe thấy bà chủ
thốt lên cái tên ”David“. Điểm đó có tầm quan
trọng cao để soi sáng cho chúng ta về những nguyên
cớ gây ra cãi vã.
”Mội điều gây ra cảm tưởng sâu đậm cho mọi người
là: những nét nhăn nhỏ của ông đại tá. Theo lời
chúng của họ, vẻ mặt ông có mọt nét biểu lộ sự
khiếp sợ và sự kinh hoàng chưa từng thấy. Rõ ràng
là ông biết mình sắp chết và rằng sự trông thấy
cái chết đã làm cho ông kinh hoàng. Điều đó, phù
hợp với lý thuyết của cảnh sát: ông đại tá hẳn
đã thấy vợ mình chuẩn bị giết mình. Và cái việc
cú đánh đã được giáng xuống từ đằng sau cũng không
mẫu thuẫn với lý thuyết đó, bởi vì ông đại tá
rất có thể quay mình để né tránh cú đánh. Về phía
bà Bát cơ, người ta không có một tin tức nào cả.
Bà bị một cơn cấp phát sốt thuộc não và tạm thời
bị mấy lý trí.
”Cảnh sát đã cho biết là cô Ma-ri ( người đã
cùng đi với bà Bát cơ vào buổi tối hom đó), quả
quyết là cô không biết chút gì về nguyên cớ đã
gây ra cơn tức giận của bạn mình. Anh Watson,
khi tập hợp những dữ kiện đó, tôi đã chú ý đến
việc mất cái chìa khoá. Căn phòng đó đã được lục
soát hết sức kỹ lưỡng mà chỉ uổng công. Do đó
cái chìa khoá đã bị lấy. Nhưng cả ông đại tác
lẫn bà vợ đều không lấy. Vậy thì một người thứ
ba hẳn đã vào trong phòng và cái người thứ ba
đó đã chỉ có thể vào được qua ngả cửa sổ sát đất.
”Ngay tức khắc tôi đã tin rằng một cuộc quan
sát kỹ căn phòng khách nhỏ và bãi cỏ có thể phát
hiện ra một dấu vết nào đó của nhân vật bí mật
kia. Tôi không bỏ sót một dấu vết nào. Và sau
chót tôi đã tìm ra nhiều dấu vết. Đã có một người
ở trong căn phòng khách nhỏ. Người đó đã đi qua
bãi cỏ từ ngoài đường vào. Tôi phát hiện 5 dấu
chân rất rõ: một trên đường, ở nơi mà người đó
đã leo lên đường, hai trênbãi cỏ, và hai trên
ván sàn gần khuôn cửa sổ mà qua đó người lạ đã
vào trong phòng. Chắc chắn là ngườiđó đã chạy
băng qua bãi cỏ, bởi vì dấu những ngón chân thì
sâu hơn dấu những gót chân. Nhưng không phải người
đó đã làm cho tôi ngạc nhiên đến bối rối. Chính
là cái đi kèm với người đó.
- Cái đi kèm?
Holmes rút từ túi áo ra mọt tờ giấy lụa lớn và
mở ra một cách thận trọng trên đầu gối anh.
- Anh nghĩ sao về cái này?
Tờ giấy phủ đầy những tranh vẽ phỏng sao lại
những dấu chân một con vật nhỏ. Có năm ngón chân,
có móng dài. Mỗi dấu lớn bằng một cái muỗng dùng
để ăn món tráng miệng.
- Đây là một con chó. - Tôi nói.
- Con chó làm sao leo lên được những tấm ri-đô?
Tôi đã phát hiện ra những dấu vết này trên một
tấm ri-đô.
- Thé thì một con khỉ?
- Không phải.
- Thế thì là cái gì?
- Đây khônglà con chó, không là con mèo, cũng
chẳng là con khỉ, cũng chẳng là con vật nào mà
ta biết. Tôi đã thử hình dung ra con vật đó theo
các kích thước của dấu chân nó. Đây là bốn dấu
chân ở một nơi mà con vật đứng bất động. Giữa
chân trước và chân sau cách nhau vào khoảng 50cm.
Anh hãy thêm vào đó chiều dài của cái cổ và của
cái đầu thì anh sẽ có một con vật mà chiều dài
thân mình chưa tới sau mươi phân, và nó có thể
còn ngắn hơn thế nữa, hoặc dài hơn nếu nó có một
cái đuôi. Nhưng khi con vật di chuyển, ta có chiều
dài của bước chân nó. Dấu bước chân là mười centimét.
Vậy là con vật này có cái thân mình dài với những
chân rất ngắn. Tóm lại, đó là một thú leo được
lên tấm riđô và là con thú ăn thịt.
- Làm sao mà anh suy diễn ra được điều đó?
- Bởi vì đã leo lên những tấm ri-đô. ở khuôn
cửa sổ có treo một lồng chim hoàng yến. Dường
như mục tiêu của nó khi leo lên ri-đô là để bắt
con chim.
- Thế thì con vật đó là gì?
- Đó là một loại chồn hạt dẻ, mõm nhọn, lớn hơn
những con chồn mà tôi đã từng thấy.
- Nhưng nó dính dáng gì đến tội ác?
- Điều đó cũng lại tối tăm. Nhưng chúng ta biết
là có một người đứng trên đường và rình mò cuộc
cãi vã của hai vợ chồng, bởi vì những mành sáo
còn chưa buông xuống và ngọn đèn còn được thắp
sáng. Chúng ta cũng còn biết là người đó dã chạy
băng ngang bãi cỏ, đã vào trong phòng khách nhỏ,
có đem theo một con thú bí mật, và y đã đánh ông
đại tá (nếu không, thì vừa lúc trông thấy y, ông
đại tá đã té bật ngửa xuống thanh gác củi và bị
tét đầu).
Sau chót y bỏ đi với chiếc chìa khoá cửa.
- những khám phá của anh làm cho nội vụ tối tăm
hơn, thay vì làm cho nó được sáng tỏ!
- Anh có lý! Nhưng tôi đã làm cho anh thức quá
khuya! Vậy ngày mai, trên đường đi Aldershot,
tôi sẽ kể tiếp.
- Cảm ơn! Anh cứ kể tiếp.
- Khi ra khỏi nhà vào hồi bảy giờ rưỡi, bà Bát
- cơ không giận hờn gì chồng; người đánh xe đã
nghe bà nói chuyên với ông đại tá theo lối thân
tình. Mặt khác, ngay sau khi về nhà, bà đã vào
trong căn phòng và kêu người hầu pha trà; bất
cứ người phụ nữ nào bị bồn chồn cũng đều làm như
vậy, và ngay sau khi ông địa tác hiện ra là bùng
nổ. Thế mà cô Ma-ri đã không rời khỏi bà trong
suốt khoảng thời gian đó, cho nên mặc dù cô ta
có chối cãi, nhưng chắc chắn cô có biết một cái
gì đó.
(Hết Phần 1 ... Xin xem tiếp Phần
2)