Hồi đó, vào cuối tháng 9, những
cơn bão mùa thu đang hoành hành hung dữ, phô trương
sức mạnh ghê gớm của thiên nhiên. Suốt ngày gió gào
rít ầm ĩ, mưa trút xối xả va đập như gõ trống vào
các cánh cửa sổ. Càng về tối cơn bão càng dữ dội hơn,
gió thổi vào các ống khói như trẻ con cả thành phố
nhất loạt khóc hu hu.
Hôm ấy, Sherlock ngồi buồn rầu c ạnh lò sưởi và sắp
xếp lại cho ngăn nắp trật tự tài liệu của mình. Còn
tôi thì ngồi đối diện với anh, say mê đọc những câu
chuyện tuyệt vời của Clark Russell nói về biển.
Tôi say mê đến mức tiếng rít của cơn bão rơi vào
tiềm thức c ủa tôi như lời của câu chuyện, còn tiếng
mưa rơi như tiếng rì rào của sóng biển. Vợ tôi mấy
hôm nay có công việc phải về bên nhà bà nhạc. Còn
tôi tạm trú tại căn hộ cũ kỹ rêu phong trong hẻm
Baker.
-
Hãy nghe kìa - tôi nói và nhìn Sherlock - Hình như
có tiếng chuông gọi cửa. Ai lại đến trong lúc cơn
mưa bão thế này được nhỉ? Hay
là bạn của cậu?
-
Ngoài cậu ra, tớ chẳng có ai là bạn cả, - Holmes trả
lời - Còn khách khứa thì tớ không động viên họ đến
hỗ trợ tớ.
- Vị
khách nào nhỉ?
-
Nếu như vậy thì công việc vô cùng nghiêm trọng và
cấp bách. Cái gì có thể buộc con người kia đi ra
ngoài đường trong cơn mưa bão hoành hành gầm rít vào
giờ này? Có khi lại là người đàn bà ngồi lê mách lẻo
nào đó, bạn của bà chủ nhà đến chơi cũng nên?
Holmes đã nhầm. Chúng tôi nghe thấy tiếng chân ngoài
phòng và tiếng gõ cửa rụt rè. Holmes thò cái tay dài
ngoằng của mình quay bóng đèn về phía chiếc ghế bành
còn trống.
-
Mời vào! - Anh nói.
Một người trai trẻ tuổi độ 20 - 22, ăn mặc khá chải
chuốt có ph ần tao nhã và hơi kiểu cách. Nước ở
chiếc dù chảy xuống thành dòng, chứng tỏ thời tiết
thật kinh khủng. Người mới vào lo lắng nhìn xung
quanh và dưới ánh sáng ngọn đèn, tôi thấy khuôn mặt
của anh ta bệch bạc, còn đôi mắt thì đầy nỗi lo âu
tuyệt vọng.
-
Tôi thành thật xin lỗi hai ngài. - Anh ta nói và đưa
cái kính g ọng vàng đang cầm ở tay lên mắt. - Tôi hy
vọng các ngài không cho tôi là kẻ quấy rầy... Sở dĩ
tôi phải mang vào căn phòng ấm cúng sự lạnh lẽo ướt
át của cơn mưa bão là...
-
Hãy đưa áo khoác và dù của ngài cho tôi, - Holmes
nói. - Tôi treo vào chiếc móc sẽ khô ngay. Tôi nhận
thấy hình như ngài v ừa đi từ hướng tây nam tới đây.
-
Vâng, tôi từ Horsham tới.
-
Bùn trên đế giầy của ngài đúng là đất bùn của vùng
ấy.
-
Tôi đến gặp ngài xin ngài lời khuyên bảo.
-
Điều đó thì ngài nhận được dễ thôi.
-
Và nhờ sự giúp đỡ.
-
Sự giúp đỡ thì không phải bao giờ cũng dễ dàng có
được.
-
Tôi đã được nghe về ngài rất nhiều, thưa ngài
Holmes. Tôi nghe ngài thiếu tá Prendergast kể là
ngài đã cứu ông ta thoát khỏi cảnh ồn ào hỗn độn ở
câu lạc bộ Tankerville.
-
À tôi nhớ rồi, ông ấy bị bọn xấu lừa đảo, buộc tội
chơi bài không sòng phẳng.
-
Ông ta nói là ngài thông thạo trong mọi lĩnh vực.
-
Ông ta khen quá lời đấy.
-
Theo lời ông ấy là ngài chưa bao giờ thất bại.
-
Tôi đã bị thua bốn lần. Ba lần do cánh đàn ông, một
lần do cánh đàn bà cho đo ván.
-
Những con số ấy thấm vào đâu so với những chiến
thắng?
-
Vâng, chúng tôi thường thành công.
-
Vậy thì ngài cũng sẽ thành công trong chuyện của tôi.
-
Mời ngài, kéo ghế ngồi sát lò sưởi và hãy kể thật tỉ
mỉ từng chi tiết.
-
Chuyện của tôi rất khác thường.
-
Chuyện bình thường không bao giờ đến với tôi. Tôi
đại diện cho cơ quan phá án cao cấp nhất.
-
Nhưng dù sao, thưa ngài, tôi vẫn ngờ là trong quá
trình hoạt đ ộng của mình, ngài chưa bao giờ nghe
nói đến những chuyện kinh khủng như chuyện đã xảy ra
với gia đình tôi.
-
Ngài kích thích trí tò mò nghề nghiệp của tôi quá -
Holmes nói - Trước hết ngài hãy bình tĩnh kể hết
những tình tiết chính, còn sau đó tôi sẽ hỏi thêm
những chi tiết cần thiết khác mà tôi cho là bổ ích.
-
Tên tôi là John Openshaw, - anh ta tự giới thiệu. -
Nhưng theo tôi hiểu, công việc của tôi ít liên quan
đến những sự việc ghê rợn kia. Đó là chuyện thừa kế,
vì vậy để cho ngài nắm được sự kiện một cách rõ ràng,
tôi buộc phải quay lại từ đầu toàn bộ lịch sử gia
đình tôi.
Ông nội tôi sinh được hai người con trai: người bác
của tôi tên là Elias và bố tôi - Joseph. Cha tôi tậu
được một xí nghiệp nhỏ ở Coventry. Sau đó cha tôi mở
rộng qui mô sản xuất hơn nhờ sản xuất xe đạp. Cha
tôi đã phát minh ra lo ại vành xe đạp không rỉ "Openshaw".
Xí nghiệp làm ăn rất phát đạt cho nên sau khi bán cơ
ngơi ấy cha tôi về sống rất đầy đủ và sung túc. Bác
Elias tôi trong những năm trai tr ẻ đã sang tận châu
Mỹ làm ăn, và trở thành một chủ đồn điền ở bang
Florida, ở đây công việc lành ăn của bác tôi rất
trôi chảy. Trong thời gian chi ến tranh bác tôi
chiến đấu trong quân đội của tướng Jackson, sau đó
thì dưới quyền chỉ huy của tướng Hood và đã được
phong cấp đại tá.
Đến khi tướng Lee hạ vũ khí đầu hàng, bác tôi trở về
với đồn đi ền của mình. Ông sống ở đó ba bốn năm.
Vào năm 1869 hoặc 1870 gì đấy, bác tôi quay về châu
Âu và thuê một nơi ở không xa lắm ở Sussex, gần
Horsham. Khi ở bên Mỹ, bác tôi đã dành dụm được một
số vốn liếng khá lớn, và cầm món tiền đó bác tôi rời
khỏi nước Mỹ với nguyên nhân là: kinh tởm những
người da đen và không đồng tình với chính phủ trong
việc giải phóng người da đen khỏi ách nô lệ. Bác tôi
là một người kỳ qu ặc, ông ấy rất ác độc và nóng
tính. Tức giận cái gì đó là ông văng ra những câu
chửi nghe thật kinh tởm.
Ông ấy sống độc thân, tránh giao tiếp với mọi người.
Tôi chắc chắn rằng trong những năm tháng sống ở
Horsham, bác tôi chưa một lần nào ra phố. Bác tôi có
một mảnh vườn và hai, ba mảnh đất trống xung quanh
nhà, ông chỉ bách bộ dạo chơi trong khu vực đó mà
thôi. Có những tuần ông bác tôi ngồi lì trong phòng,
ông uống rượu và hút thuốc rất nhiều, xa lánh mọi
người, thậm chí ngay đến em ruột của mình ông ấy
cũng không thèm biết đến. Ông ấy tỏ ra yêu mến tôi,
mặc dù mới g ặp tôi lần đầu lúc tôi mười hai tuổi -
năm đó là 1878. Trong th ời gian đó bác tôi đã sống
ở nước Anh được tám hay chín năm rồi. Bác tôi thương
lượng với cha tôi để cho tôi sang sống với ông, bác
rất thương tôi. Trong những lúc không say rượu bác
thường chơi cờ nhảy với tôi. Ông hoàn toàn tin tưởng
giao phó mọi việc trong nhà cho tôi. Đến năm tôi lên
16 tuổi thì tôi thực sự là ông chủ trong nhà. Tôi
giữ các loại chìa khoá muốn vào chỗ nào cũng được,
muốn làm gì thì làm, nhưng với một đi ều kiện: không
được phá rối sự yên tĩnh cô độc của người bác. Ngoài
ra tôi còn bị ràng buộc bởi trường hợp ngoại lệ: ở
gác lửng có một căn phòng luôn luôn đóng kín. Bác
tôi không cho phép bất cứ một người nào vào, kể cả
tôi. Với tính hiếu kỳ của trẻ con, có lần tôi nhìn
trộm qua lỗ khoá nhưng không thấy gì cả ngoài chiếc
rương và túi linh tinh gì đó.
Một hôm vào tháng ba năm 1883 - có một bức thư dán
phong bì nước ngoài nằm trên bàn. Bác tôi hầu như
chẳng bao giờ có thư vì mọi chuyện mua bán ông ấy
đều trả bằng tiền mặt, còn bạn bè thì không có.
"Từ
Ấn Độ gửi tới, - cầm bức thư ông nói. - Dấu dòng ở
Pondicherry! Chuyện gì có thể xảy ra đây?".
Bác tôi mau chóng xé phong bì, từ trong phong bì năm
hạt cam khô rơi xuống kêu lanh canh trong đĩa sứ.
Tôi định reo lên, nhưng nụ cười của tôi vụt tắt ngấm
khi tôi ngước nhìn bác tôi. Môi dưới của ông trễ
xuống, cặp mắt mở to thao láo, cả b ộ mặt trở nên
xám ngắt, ông ấy nhìn bất động chiếc phong bì đang
cầm trên tay run run.
"K. K. K! - ông ấy thốt lên, và sau đó nói thêm. -
Lạy chúa tôi! Lạy chúa tôi! Đây là bản thanh toán
món nợ của tôi".
"Cái
đó là gì thưa bác? - Tôi hỏi".
"Cái
chết - ông nói xong và đứng lên ra khỏi ghế và từ từ
đi vào phòng của mình, để mình tôi ở lại sửng sốt và
hoảng sợ".
Tôi cầm lấy phong bì và nhìn vào thấy bên trong có
ba chữ "K" bằng mực đỏ. Trong phong bì không còn gì
nữa, ngoài năm hột cam đã khô. Cái gì làm cho bác
tôi hoảng sợ?
Tôi đứng dậy chạy lên tầng trên. Bác tôi đi xuống
trên tay cầm một chiếc chìa khóa cũ đã bị rỉ nhiều,
có lẽ chiếc chìa khóa để mở căn phòng trên gác lửng.
Còn tay kia ông đang giữ một chiếc hộp bằng đồng
thau.
"Chúng
muốn làm gì mặc chúng. Dù sao chăng nữa bác cũng
không thể trao cho chúng đâu! - Bác tôi nói với sự
nguyền rủa, căm tức - Cháu nói cô Mary đến nhóm lò
sưởi ở phòng bác và đi mời ngài Fordham luật sư ở
Horsham tới".
Tôi thi hành tất cả mệnh lệnh mà bác tôi sai bảo.
Khi ngài luật sư đến, người ta gọi tôi lên phòng bác
tôi. Ngọn lửa trong lò sưởi cháy sáng rực, trên tấm
sàn của nó là một đống tro dày, dường như tro của
một mớ giấy tờ vừa bị đốt. Chiếc hộp bằng đồng thau
mở ra rỗng tuếch. Nhìn vào chiếc hộp, tôi thở dài
ngao ngán, lo sợ vì nhìn thấy phía trong nắp có khắc
ba chữ "K" giống y như trên phong bì.
"Bác
muốn cháu là người làm chứng cho việc lập biên bản
này, John - Bác tôi nói, bác sẽ để lại chỗ này cho
em của bác, tức là cha cháu, tất nhiên nó sẽ được
truyền lại cho cháu, nếu cháu có thể sử dụng một
cách yên ổn thì điều đó rất tốt! Còn n ếu cháu không
có khả năng làm điều đó, thì hãy nghe theo lời
khuyên của bác là nên trao nó lại cho kẻ thù độc ác
nhất của bác! Bác rất phiền muộn khi để lại cho cháu
một thừa kế như v ậy, nhưng bác không hiểu sự việc
sẽ xảy ra thế nào? Hãy vui lên và ký vào tờ giấy này
vào cái chỗ mà ngài Fordham sẽ chỉ cho cháu".
Tôi ký vào tờ giấy ấy, và ngài luật sư mang nó đi
luôn.
Trường hợp rất kỳ lạ khiến cho tôi băn khoăn và có
một ấn tượng sâu sắc. Tôi nghĩ đến nó mà chưa hề tìm
ra được lời gi ải đáp: Tôi không thể nào xua tan đám
mây lo sợ bao phủ, m ặc dù nỗi niềm lo âu đã giảm
sút sau vài tuần êm ả trôi qua, không có một dấu
hiệu nào làm thay đổi cuộc sống hàng ngày của chúng
tôi. Thú thực rằng tôi có nhận thấy những thay đối l
ớn lao trong chiều sâu con người bác tôi. Ông ấy
uống rượu nhiều khinh khủng và xa lánh tất cả thế
giới bên ngoài. Phần l ớn thời gian ông ấy khoá kín
cửa ngồi trong phòng. Nhưng th ỉnh thoảng trong lúc
say khướt ông đi ra khỏi phòng với khẩu súng lục
trong tay, bác ra vườn và hét toáng rằng ông không s
ợ ai hết và cũng không cho bất kỳ người hay là ma
quỷ đụng đ ến ông và chặt ông như chặt con cừu. Tuy
thế nhưng khi cơn nóng giận say sưa đã nguôi, ông ấy
vội vã chạy về phòng đóng chặt cửa lại, khóa ổ, cài
then như một kẻ đang bị nỗi sợ hãi bao trùm từ tứ
phía không thể giữ thân nổi. Trong lúc nóng gi ận,
khuôn mặt của bác tôi, kể cả những ngày giá buốt,
cũng v ẫn mồ hôi mồ kê nhễ nhại, y như người ta vừa
mới tắm hơi về.
Để kết thúc câu chuyện bi thảm ấy, thưa ngài Holmes,
và cũng khỏi lạm dụng lòng kiên nhẫn của ngài, tôi
chỉ kể vắn tắt kết c ục như sau: Một hôm trời vừa
tối; sau khi uống rượu say mềm bác tôi thực hiện một
cuộc dạo chơi. Sau đó chúng tôi không thấy ông về
nữa. Chúng tôi hoảng hốt vội vã chạy bổ đi tìm, và
thật tang thương khi nhìn thấy ông nằm sấp mặt xuống
trong chiếc ao đầy nước, chiếc ao phủ đầy rong rêu
nằm phía sâu trong vườn. Trên người ông không thấy
một dấu vết đánh đập nào hết, còn chiếc ao thì rất
cạn chỉ sâu không quá 2 Foot.
Chính vì thế tòa phúc thẩm chỉ chú ý đến tính khi
bất thường c ủa bác tôi để kết luận rằng đây là một
vụ tự vẫn. Nhưng tôi biết chắc chắn ý nghĩ cái chết
làm bác tôi hoảng sợ, bởi thế làm sao bác tôi tự
nguyện lìa bỏ cõi đời này một cách dễ dàng và nhanh
chóng như thế. Dù có muốn gì đi nữa thì thực tế vẫn
phũ phàng bao trùm tất cả. Cha tôi là người thừa kế
gia sản khoảng mười bốn nghìn bảng Anh nằm tại ngân
hàng...
-
Xin phép, - Holmes ngắt lời anh ta. - Câu chuyện của
ngài th ật ly kỳ và có những bí ẩn khó hình dung
ngay được. Ngài hãy cho tôi biết bác ngài nhận được
lá thư ngày nào và ông chết ngày nào?
-
Bức thư đến ngày 9 tháng 3 năm 1883, và bác tôi chết
sau đó đúng 7 tuần, tức là đêm mồng một rạng ngày
mùng hai tháng 5 năm 1883.
-
Xin cám ơn ngài, xin ngài cứ tiếp tục.
-
Khi cha tôi bắt đầu nắm quyền kế thừa cơ ngơi của
bác tôi ở Horsham, thì theo đề nghị của tôi, cha tôi
đã lục kỹ lưỡng căn buồng ở gác lửng mà trước kia
luôn đóng kín. Chúng tôi tìm th ấy một chiếc hộp
bằng đồng thau, nhưng bên trong dường như bị huỷ hết.
Bên trong nắp đậy có dán một mảnh giấy ghi ba ch ữ
"K"' và một dòng chữ nhỏ phía dưới "Thư từ, ghi chép
biên lai, khế ước cho vay". Tôi cho rằng những dòng
chữ nói lên nội dung những giấy tờ đã được đựng bên
trong chiếc hộp và đã b ị ngài đại tá Openshaw đốt
hết. Ngoài chiếc hộp ra trong buồng không có gì đáng
kể, nếu không tính một đống giấy vứt bừa b ộn và
những quyển sổ ghi chép linh tinh có liên quan đến
cuộc sống của bác tôi bên Mỹ. Trong mớ lộn xộn ấy có
thứ đề cập đến thời gian chiến tranh và đã cho thấy
bác tôi là một quân nhân thi hành nghĩa vụ của mình
rất tốt. Những giấy tờ khác thì nói về thời kỳ thành
lập các bang ở miền Nam, phần lớn đ ều liên quan đến
vấn đề chính trị. Rõ ràng bác tôi đã đóng một vai
trò lớn trong phe chống đối, đối lập hẳn với các nhà
lãnh đ ạo từ miền Bắc được cử vào.
Vào đầu năm 1884, cha tôi chuyển hẳn tới sống ở
Horsham. Mọi việc đều rất tốt đẹp. Một hôm vào ngày
mồng bốn tháng giêng năm 1885, khi chúng tôi đang ăn
sáng, bỗng cha tôi kinh ngạc kêu lên. Một tay cha
tôi cầm chiếc phong bì, còn trong lòng bàn tay kia
là năm hột cam khô. Cha tôi thường giễu cợt trước
cái chết hoang đường của ngài Đại tá, còn bây giờ
chính cha tôi cũng bàng hoàng hoảng hốt, khi nhận
đúng giấy báo của tử thần như thế.
"Thế
này là thế nào? John" - Cha tôi hỏi khẽ.
Tim của tôi chợt lạnh buốt.
"Đó
là ba chữ "K" - Tôi trả lời.
Cha tôi nhìn vào phía trong chiếc phong bì.
"Đúng
ở đây cũng có ba chữ ấy. Nhưng còn cái gì đây?"
"Hãy
đặt tất cả giấy má lên chỗ chiếc đồng hồ mặt trời" -
Nhìn qua vai cha tôi, tôi đọc.
"Đồng
hồ mặt trời nào? Những giấy tờ gì kia chứ? " - cha
tôi thảng thốt ngạc nhiên hỏi.
"Đồng
hồ mặt trời đặt ở trong vườn, còn giấy tờ chắc bị
cháy r ụi rồi".
"Quỷ
tha ma bắt hết bọn nó đi! - Cha tôi nói. - Chúng ta
đang s ống trong một đất nước văn minh, không thể
chấp nhận những điều nhảm nhí được. Bức thư từ đâu
tới?".
"Từ
Dundee" - tôi trả lời, sau khi đã lướt nhìn con dấu
bưu đi ện.
"Một
trò đùa mù quáng của một kẻ khùng nào đó - cha tôi
nói. - Đồng hồ mặt trời và giấy má lằng nhằng có
liên quan gì đến tôi kia chức? Không thèm chấp cái
đồng hồ quái quỉ ấy làm gì!".
"Con muốn báo cho cảnh sát", - Tôi nói lo âu.
"Để
cho người ta lấy cha mày làm trò cười. Cha không
nghĩ như thế!".
"Vậy
để con tự làm lấy".
"Không
đời nào - cha không muốn rung chuông ầm ĩ với thiên
hạ rằng tôi là thằng
điên".
Thuyết phục cha tôi quá là uổng công, vì ông ấy rất
ương ng ạnh. Còn tôi thì bị nỗi lo sợ dày vò.
Ba ngày sau, cha tôi đi thăm một người bạn cũ - ngài
thiếu tá Freebody, đang chỉ huy một đồn ở Portsdown.
Tôi mừng là cha tôi đã đi khỏi, vì tôi ngỡ ra khỏi
căn nhà này sẽ bớt nguy hiểm. Nhưng tôi đã lầm. Ngày
hôm sau tôi nhận được một bức điện của ngài thiếu tá
gửi, yêu cầu tôi đến gấp. Cha tôi đã bị rơi xuống
một mỏ đá phấn sâu hoắm, ở địa phương này khá nhiều
hố như vậy. Tôi chạy vội tới chỗ cha tôi. Bị vỡ sọ,
chết r ồi, ông không kịp trăng trối lời nào. Cha tôi
đi từ Ferkhem về lúc nhá nhem tối, ở đây cha tôi
không thông thạo địa hình mà các mỏ đá phấn không
được rào dậu cẩn thận, cho nên tòa phúc thẩm không
chút do dự kết luận ngay "Chết trong trường hợp đáng
tiếc”. Tôi nghiên cứu kĩ lưỡng những dữ kiện có liên
quan đến cái chết của cha tôi, nhưng không thể phát
hiện được gì để kết luận đó là một vụ giết người
tinh vi. Không có v ết tích đánh đập, không có dấu
vết trên mặt đất. Tôi chỉ nói riêng với ngài: Tôi lo
lắng vô cùng và cảm giác như cha tôi đã l ọt vào
chiếc bẫy giăng sẵn.
Nghiễm nhiên tôi trở thành người thừa kế toàn bộ gia
sản trong cảnh tang tóc đau thương như thế đấy. Ngài
có thể hỏi l ại tôi, tại sao anh không từ chối thừa
kế tài sản đẫm máu ấy? Tôi trả lời ngài rằng: Tôi
khẳng định những điều bất hạnh xảy ra với gia đình
tôi có liên quan tới những sự kiện bí mật xa xưa lắm
trong cuộc đời của người bác quá cố và mối đe doạ
tương tự sẽ đến bất kỳ từ đâu, lúc nào cũng sẵn sàng
giáng xuống đầu tôi, dù tôi có ở ngôi nhà nào cũng
vậy.
Người cha xấu số của tôi qua đời vào tháng giêng năm
1885. T ừ đó đến nay đã hai năm tám tháng trôi qua.
Tất cả chuỗi thời gian đó tôi hoàn toàn sống yên ổn
ở Horsham và hy vọng câu chuyện đáng nguyền rủa kia
không còn đè nâng lên gia đình tôi nữa. Tôi nghĩ sau
những cái chết của thế hệ bác tôi, cha tôi thì nó
cũng rời xa theo dĩ vãng luôn. Nhưng tôi hy vọng quá
sớm. Sáng hôm qua tôi bị choáng váng, cũng vẫn bức
thư của thần chết đến gõ cửa cuộc sống êm đềm của
chúng tôi.
Chàng trai lấy ra từ trong túi một chiếc phong bì
nhàu nát, lật đi lật lại, rồi trút năm hột cam khô
đặt xuống tấm khăn trải bàn.
-
Chiếc phong bì này đây. - Anh ta nói tiếp, - Dấu bưu
điện đóng tại Luân Đôn - khu Đông, bên trong vẫn ba
chữ "K" khó hi ểu và dòng chữ "Hãy đặt tất cả giấy
má vào chỗ đồng hồ mặt trời".
-
Ngài đã làm những gì rồi? Holmes hỏi.
-
Chưa làm gì cả?
-
Chưa làm gì à?
-
Nói đúng ra, - Anh ta gục mặt vào đôi bàn tay nhỏ
nhắn, - tôi bất lực như một con chuột bị một con rắn
đuổi cùng đường chỉ biết nằm im chờ rắn tới gần.
Hình như tôi bị rơi vào tay của m ột thế lực siêu
phàm không thể nào thoát được và không có cách gì
cứu nổi.
-
Ngài nói gì lạ vậy?! - Sherlock vội thốt lên an ủi,
- ngài cần phải hành động gấp, nếu không ngài sẽ
chết. Chỉ có ý chí và năng lực là có thể cứu sống
ngài. Giờ đây không phải lúc tuyệt vọng.
-
Tôi đã đến gặp cảnh sát.
-
Ở đó đã giải quyết ra sao rồi?
Nghe tôi nói, họ chỉ cười. Tôi nghĩ ngài chỉ huy
cảnh sát cho những lá thư kia là trò đùa của một kẻ
vô công rồi nghề nào đó! Còn những cái chết của
người thân trong gia đình tôi, theo quan tòa chứng
nhận chỉ là những trường hợp không may mà thôi. Nó
không dính líu gì đến lời những đe dọa, cảnh cáo...
Holmes vung nắm đấm trong không trung.
-
Ngu xuẩn không tưởng tượng nổi? - Anh bất bình.
-
Dẫu thế người ta cũng cử một người cảnh sát đến chỗ
tôi, người ấy túc trực suốt ngày đêm trong phòng
tôi.
-
Ông ta có đi cùng ngài đến đây không?
-
Không, người ta ra lệnh cho ông ta phải ngồi trong
nhà.
Một lần nữa, Holmes lại vung nắm đấm lên, vẻ tức
giận.
-
Ngài đến đây để làm gì? - Anh hỏi. - Quan trọng là
tại sao ngài không đến đây ngay lúc nhận thư?
-
Tôi không biết, vừa mới hôm qua tôi mới nói chuyện
sự nguy hiểm của tôi cho ngài thiếu tá Prendergast,
và ông ấy khuyên tôi nên đến gặp ngài.
-
Đã hai ngày rồi, đáng lẽ ngài phải hành động sớm hơn
mới phải. Ngài không còn những số liệu gì thêm ngoài
những cái ngài mới kể ư? Có còn tình tiết nào gợi ý
để giúp ích cho chúng tôi được không?
-
Còn một chi tiết nữa - John Openshaw nói, anh ta lục
tìm trong túi áo bành tô và lấy ra mẩu giấy màu xanh
đã ngả màu, đặt lên trên bàn. - Tôi vừa nhớ ra. -
Anh ta tiếp. - Trong ngày bác tôi đốt tất cả giấy tờ
thì mẩu giấy này còn sót lại chưa cháy kịp, nằm lẫn
trong đám tro ấy. Tôi tìm thấy ở trên sàn phòng bác
tôi. Tôi nghĩ chắc đây là mẩu giấy tình cờ bị sót
lại trong cuộc thiêu huỷ kia. Ngoài mấy hột cam ra,
trong tờ giấy này không có gì giúp ích cho tôi. Tôi
cho đó là một trang của s ổ nhật ký, nét chữ này là
của bác tôi.
Holmes xoay bóng điện, và cả hai chúng tôi cúi sát
xuống tờ gi ấy. Đường biên có những vết xước nham
nhở, chứng tỏ tờ gi ấy này được xé trong một quyển
vở nào đó. Phía trên cùng có dòng chữ : "Tháng ba
năm 1869" phía dưới có những câu vừa đọc vừa đoán
như sau:
Mồng 4 Hudson có mặt: Tại cầu cảng như trước kia.
Mồng 7 đã gửi những hột cam cho McCauley, Paramore
và John Swain từ Xen - Augustine.
Mồng 9 - McCauley đã cút khỏi mặt đất.
Mồng 10 John Swain đã cút khỏi mặt đất.
Ngày 12. Paramore đã được đến gõ cửa - Mọi việc đều
êm đ ẹp.
-
Cảm ơn ngài. - Holmes nói và xếp tờ giấy trả lại cho
người khách trẻ. - Ngay bây giờ ngài hãy nhanh
chóng, khẩn trương bắt tay vào việc. Chúng ta không
cần tốn thêm một chút thời gian nào để tranh luận
điều chàng vừa kể. Ngài cần trở về nhà ngay lập tức
và hành động gấp.
-
Tôi cần phải làm gì bây giờ?
-
Có mỗi một việc thôi, nhưng cần phải giải quyết
ngay. Ngài phải đặt ngay tờ giấy mà ngài vừa cho
chúng tôi xem vào chi ếc hộp đồng thau mà ngài đã
nói lúc nãy. Ngài đặt vào đó một bức thư báo tin là
tất cả những giấy tờ còn lại đã bị ông bác c ủa ngài
đốt sạch sành sanh và chỉ còn lại duy nhất một mẩu
gi ấy này thôi. Ngài phải thông báo điều này để gây
lòng tin sau khi viết xong bức thư ấy ngài hãy đặt
ngay chiếc hộp bằng đ ồng thau kia lên chiếc đĩa của
đồng hồ mặt trời như trong thư người ta yêu cầu.
Ngài hiểu chứ?
-
Tôi hoàn toàn hiểu ý ngài.
-
Ngài nên nhớ hiện tại không nên nghĩ đến chuyện báo
thù, ho ặc một ý nghĩ nào tương tự như vậy. Tôi đề
nghị chuyện ấy để pháp luật trừng trị, nhưng chúng
ta cũng cần giăng một mẻ lưới, tuy nhiên chúng nó đã
giăng sẵn rồi. Vì vậy, trước hết c ần phải thoát
khỏi mối nguy hiểm đang đe dọa ngài. Còn sau đó
chúng tôi sẽ làm sáng tỏ sự việc mờ ám và trừng trị
những kẻ sát nhân.
-
Chân thành cảm ơn ngài, - Chàng trai nói và đứng lên
lấy chi ếc áo khoác mặc vào. - Ngài đã trả lại cho
tôi cuộc sống và ni ềm hy vọng. Tôi sẽ hành động
đúng như ngài đã dạy bảo.
-
Không được lãng phí dù chỉ một phút nào hết. Điều
quan tr ọng là hãy giữ lấy mình. Rõ ràng không thể
chối cãi là ngài đang đứng trước mối hiểm họa ngàn
cân treo sợi tóc. Ngài quay về bằng cách nào?
-
Tôi sẽ đi tàu hoả, từ ga Waterloo.
-
Chưa đến 21 giờ. Ngoài đường vẫn còn đông người. Tôi
hy v ọng ngài sẽ bình an. Nhưng dẫu sao ngài cũng
nên đề phòng k ẻ thù.
-
Tôi đã mang phòng theo khẩu súng lục.
-
Rất tốt, ngay ngày mai tôi sẽ bắt tay vào công việc
của ngài.
-
Có nghĩa là tôi sẽ gặp ngài ở Horsham.
-
Ô! Đó là điều bí mật của công việc. - Ở tại Luân Đôn
này, chính ở đây tôi sẽ tìm ra hắn.
-
Vậy thì, tôi sẽ ghé lại chỗ ngài một hoặc hai ngày
nữa và thông báo cho ngài tất cả sự việc dính dáng
tới chiếc hộp đồng thau và giấy má kia. Tôi sẽ làm
đúng tất của những gì ngài dặn.
Anh ta bắt tay chúng tôi rồi từ biệt ra về.
Gió vẫn gầm rít, mưa vẫn liên tiếp gõ vào cánh cửa
sổ.
Câu chuyện ly kỳ bi thảm kia đã làm cho chúng tôi
phần nào quên đi nỗi phiền muộn về cơn bão dai dẳng,
giờ đây đang xâm chiếm bao phủ trở lại.
Sherlock ngồi im lặng, đầu anh hơi cúi xuống, mắt
nhìn chăm chú vào ngọn lửa đỏ rực trong lò sưởi đang
hừng hực cháy. Anh hút hết một tẩu thuốc, rồi ngồi
ngả người ra sau ghế và nhìn những làn khói xanh
đang nhẹ nhàng uốn éo liên tiếp nối nhau bay trên
trần nhà.
Watson, tớ nghĩ là, - Cuối cùng anh phá tan sự im
ắng. - Trong công việc "chữa bệnh" của tớ có lẽ
không bao giờ gặp phải nh ững vụ nguy hiểm, ly kỳ
hơn vụ này.
-
Nhưng trước hết cậu đặt cho mình một quy định cụ thể
về tính chất của nguy hiểm ra sao cái đã? - Tôi hỏi.
-
Ở đây không có chuyện hoài nghi về tính chất tương
đối của nó. - Anh ta trả lời.
-
Nhưng cụ thể ra sao? Ai là người có tên K. K. K.? Và
hắn ta cứ bám riết như con đỉa gia đình bất hạnh ấy
nhằm mục đích gì?
Sherlock nhắm mắt lại, dựa hẳn vào thành ghế và gập
lai tay vào nhau.
-
Một nhà suy luận chính thống. - Anh ta nhận xét -
Khi nhìn th ấy một dữ kiện duy nhất trong cả tổng
thể có thể rút ra từ đấy không những toàn bộ chuỗi
sự kiện tạo nên nó, mà còn thấy được những hậu quả
sẽ xảy ra theo sau. Cũng Cuvier có thể mô tả đúng
một con vật mà chỉ dựa vào cơ sở một chiếc xương của
nó. Một quan sát viên nghiên cứu một mắt xích trong
toàn bộ chuỗi sự kiện, cần phải dựng lại được tất cả
nh ững mắt xích còn lại, kể cả những tiền tố và hậu
tố. Nhưng không thể đưa nền nghệ thuật suy luận lên
đến đỉnh cao tột cùng, người suy diễn cần phải sử
dụng tất cả những dữ kiện đã được đắp nên. Để làm
được việc này, anh ta cần có những kiến thức chung
nhất định nào đó. Nếu như trí nhớ của tớ không phản
tớ, thì trong ngày đầu chúng mình quen biết nhau,
cậu đã xác định chính xác ranh giới kiến thức của
tớ.
-
Đúng như vậy. - Tôi mỉm cười trả lời, - Đó là một
tài liệu bất thường - Tớ nhớ là: Triết học thiên văn
học và bộ môn chính trị đứng vào vị trí số không.
Kiến thức trong lĩnh vực thực vật học luôn luôn dao
động, trong ngành địa chất thì sâu hơn. Bởi công
việc dính dáng tới những vết dơ bẩn của bất kỳ một
vùng nào đó trong giới hạn 50 dặm xung quanh thành
Luân Đôn; còn trong lĩnh vực hoá học thì hài hước,
kỳ quặc. Trong giải phẫu h ọc thì không đồng bộ tản
mát, rời rạc. Trong lĩnh vực văn học giải trí, kiến
thức đặc biệt khác thường. Trong đó, võ sĩ quyền Anh
thì dùng kiếm, còn luật sư thì tự đầu độc mình bằng
thuốc phiện và thuốc lá. Đó là những nét cơ bản nhất
trong cách nh ận định, đánh giá của tớ.
Holmes cười rất khoái trá, khi nghe tôi nói những
tiếng sau cùng.
-
Cũng như lúc xưa tớ đã nói con người cần phải điều
khiển trí nhớ của mình như thế nào để cho mớ kiến
thức được sắp xếp thứ tự ngăn nắp trong kho tàng trí
tuệ, sao cho đến lúc cần dùng là có thể lấy ra dễ
dàng không phải tìm kiếm lục lọi.
Chúng ta nội trong tối hôm nay cần phải huy động tất
cả vốn li ếng mà chúng ta có. Cậu lấy giúp mình cuốn
bách khoa toàn thư nước Mỹ, tập có chữ "K". Nó nằm
trên giá sách, gần chỗ cậu ngôi đấy. Cám ơn! Giờ đây
chúng ta sẽ đặt ra các giả thi ết và từ đó rút ra
những kết luận. Trước hết bắt đầu từ ngài đại tá
Openshaw xem thử vì lý do gì mà ông ta rời bỏ nước
Mỹ. Trong thời đại ngày xưa con người không có
khuynh hướng phá bỏ những thói quen của mình để tự
nguyện tự giác thoái thác ra đi khỏi vùng khí hậu
tuyệt vời như ở bang Florida, để r ồi sống một cuộc
đời ẩn dật trong thị trấn quê mùa bên nước Anh này.
Sự ham mê thích thú ẩn dật nói lên ý nghĩa rằng ông
ta sợ một điều gì đó hoặc một người nào đó, hay đại
loại như v ậy. Chúng ta khẳng định giả thiết này dựa
trên cơ sở những b ức thư dọa dẫm đáng sợ mà ông ta
cũng như người thừa kế đã nhận được. Cậu có nhận xét
gì về những con dấu đóng trên phong bì đó không?
-
Lá thư thứ nhất từ Pondicherry, thư thứ hai từ
Dundee, thư thứ ba từ Luân Đôn.
-
Từ phía đông Luân Đôn! Cậu rút ra kết luận gì?
-
Đó là những bến cảng của đại dương. Hình như người
viết lá thư ấy là thủy thủ.
-
Tuyệt diệu! Chúng ta đã có chìa khóa rồi. Hoàn toàn
có khả năng người viết thư đang sống trên một con
tàu. Còn bây giờ chúng ta sẽ xem xét vấn đề này từ
khía cạnh khác. Trong trường hợp từ Pondicherry thì
khoảng thời gian giữa lời dọa d ẫm đến chuyện thực
cách nhau bảy tuần lễ; trong trường hợp từ Dundee
khoảng cách ấy chỉ có ba, bốn ngày. Cậu có nghĩ gì?
-
Khoảng cách trong trường hợp thứ nhất lớn hơn nên
cần th ời gian để thực hiện lâu hơn.
-
Nhưng chính bức thư cũng phải một quãng đường lớn
như th ế?
-
Tớ chịu. Không hiểu sự thể ra sao?
-
Có cơ sở để rút ra nhận xét là, con tàu mà kẻ sát
nhân đang sống là một chiếc thuyền buồm, hoặc một
nhóm đang sống là một chiếc thuyền buồm. Cũng như
những trường hợp tương t ự, chúng nó bao giờ cũng
gửi đi những lời cảnh cáo sau đó m ới thi hành bản
án. Cậu thấy không trường hợp từ Dundee xảy ra nhanh
chóng làm sao? Nếu chúng đi bằng tàu thuỷ từ
Pondicherry, thì chúng tới cùng với lá thư. Nhưng ở
đây lại b ảy tuần. Bảy tuần này là hiệu số giữa tốc
độ của tàu thuỷ bưu điện đã mang bức thư với tốc độ
của thuyền buồm mà lũ sát nhân đang sống.
-
Có thể là như thế?!
-
Đó là điều chắc chắn. Dựa trên cơ sở đó cậu thấy
ngay sự nguy hiểm chết người trong trường hợp cuối.
Cậu biết vì sao t ớ căn dặn anh chàng Openshaw phải
thận trọng rồi chứ?! Đòn trừng phạt bao giờ cũng
giáng vào thời hạn kết thúc cần thiết cho những kẻ
đã gửi bức thư khi vượt qua khoảng cách trên chiếc
thuyền buồm. Nhưng chính bức thư cuối này lại được g
ửi đi từ Luân Đôn, vì vậy chúng ta không thể cho
phép mình trì hoãn công việc.
-
Lạy chúa? - Tôi thốt lên - Cuộc truy nã gắt gao kia
có ý nghĩa gì?
-
Rõ như ban ngày, giấy tờ đã bị Openshaw cuỗm đi mang
trong đó một bí mật liên quan đến sự sống còn của
bọn trên chiếc thuyền buồm. Tớ cho là trên thuyền
này không chỉ có m ột thằng. Một người không thể
tham gia hai vụ giết người tài tình, không để lại
dấu vết gì. Trong chuyện này phải vài ba tên nhúng
tay vào, hơn nữa chúng là như kẻ giết người sành sỏi
và không hề run tay. Những giấy tờ mà chúng muốn
chiếm lại bằng được, dù nó nằm trong tay ai mặc kệ.
Chính thế cậu thấy không "K.K.K" đâu phải là tên của
một người, mà là dấu hiệu ám chỉ một tổ chức xã hội
bí mật nào đó.
-
Tổ chức gì?
-
Tớ chưa nghe thấy bao giờ?
Holmes lật lật mấy trang sách đang nằm trên đùi anh
ta :
-
Ở đây họ có viết như thế này "Ku Klux Klan" là tên
gọi xuất phát từ sự giống tiếng lên quy lát của khẩu
súng. Tổ chức bí mật nguy hiểm đáng sợ này có những
cựu chiến binh của quân đội miền Nam sau cuộc nội
chiến thành lập, và sau một thời gian ngắn đã nhanh
chóng lập các chi nhánh ở các bang khác. Chủ yếu là
bang Tennessee, bang Luidian, ở cả hai vùng
Carolinas, bang Georgia, và bang Florida. Tổ chức
này dùng b ạo lực phục vụ cho mục đích chính trị,
chủ yếu là khủng bố, ám sát những ứng cử viên đại
biểu cho dân da đen, hoặc đuổi khỏi đất nước, giết
những kẻ đối lập có quan điểm chống đối chúng. Bọn
chúng thường cảnh cáo trước rồi mới thực hiện. L ời
cảnh cáo chỉ gửi cho những người mà bọn chúng định
ám sát dưới hình thức thơ mộng, nhưng mọi người đều
quen thu ộc, ở một số địa phận trong nước thì một
cành lá sồi, còn nh ững nơi khác thì vài hạt dưa
gang, hoặc hột cam. Sau khi nhận được những lời cảnh
cáo đó, người ta hoặc thay đổi quan đi ểm của mình,
hoặc đi khỏi Tổ quốc. Nếu không chú ý đến lời c ảnh
cáo đó, thì người bị gửi thư sẽ không tránh khỏi cái
chết. Thường là một cái chết kỳ quặc, không lường
trước được. Tổ chức này được lãnh đạo rất chặt chẽ,
nó nghĩ ra những biện pháp hành động hữu hiệu đến
nỗi chưa ai có thể khám phá ra được hoặc tránh khỏi
cái chết thảm thiết. Chưa bao giờ những kẻ gây tội
ác bị vạch mặt. Tổ chức được hình thành trong vài ba
năm bất chấp mọi sự đàn áp của chính phủ Hợp Chủng
qu ốc Hoa Kỳ và tầng lớp tiến bộ của nhân dân. Năm
1869 những hoạt động của tổ chức bí mật này bỗng
dưng chấm dứt, tuy nhiên vẫn xảy ra một vài vụ khủng
bố.
-
Cậu có thấy không? - Holmes nói và lật lật quyển
sách, - Sự chấm dứt bất bình thường những hoạt động
chống đối của tổ chức sát nhân này trùng lặp với
cuộc ra đi của Openshaw, ông ta đã thu góp tất cả
tài liệu giấy tờ của tổ chức mang theo mình hồi
hương. Có khả năng là những nguyên nhân và kết qu ả
nằm ở điểm này. Không phải ngẫu nhiên những người
tàn ác dã man kia cứ theo đuổi mãi gia đình
Openshaw. Cậu hiểu không, bảng thống kê và những
cuốn nhật ký có thể là bôi nhọ, nói xấu những nhà
hoạt động nổi tiếng nhất của miền Nam nước Mỹ và
chính những giấy tờ này đã làm cho nhiều kẻ mất ăn
mất ngủ.
-
Có nghĩa là những giấy tờ mà chúng mình vừa được
thấy...
-
Chính nó - Đó là một thứ mà người ta mong đợi. Nếu
tớ không nhầm thì ở đó ghi: "Đã gửi những hạt giống
cho A.B.V." - Có nghĩa là họ đã gửi những lời cảnh
cáo. Tiếp theo là mấy dòng chữ A và B đã cút xéo
khỏi mặt đất - Có nghĩa bọn họ đã bỏ Tổ quốc ra đi.
Còn V. đã được đến thăm. Tớ sợ ngài V đã kết thúc
không tốt đẹp. Chúng mình còn kịp làm sáng tỏ công
chuyện mờ mịt này. Con đường để cứu thoát Openshaw
trai tr ẻ kia - chính là phải hành động đúng như tớ
khuyên bảo. Hôm nay chúng ta không thể nói thêm được
gì nữa và cũng không thể làm thêm được gì... Cậu đưa
mình mượn cây đàn, chúng ta đành chịu khó ngồi im
lặng nửa tiếng đồng hồ để quên đi th ời tiết tồi tệ
và quên đi những hành động còn tồi tệ gấp bội của
con người.
Gần sáng cơn bão mới tan, mặt trời hé ửng lên xuyên
qua nh ững đám mây mù u tối rạng rỡ chiếu rọi thành
Luân Đôn.
Khi tôi đi xuống thì Holmes bắt đầu ăn sáng.
-
Xin lỗi, tớ buộc phải bắt đầu không đợi cậu được -
Anh nói. - Tớ thấy trước rằng tớ phải làm việc cật
lực trong ngày hôm nay vì câu chuyện của Openshaw.
-
Cậu chuẩn bị đến đâu rồi? - Tôi hỏi.
-
Điều này phụ thuộc vào sự đánh giá chính xác hay
không của tớ. Có lẽ tớ phải ghé tới Horsham.
-
Cậu không định tới đó trước sao?
-
Không, tớ sẽ bắt đầu từ Xiti. Cậu gọi con hầu mang
cà phê lên đi.
Trong lúc đợi cà phê, tôi cầm tờ báo để trên bàn và
đọc lướt qua các mục. Bất chợt một cột báo làm tim
tôi lạnh toát.
-
Holmes, - Tôi thốt lên, cậu bị chậm mất rồi.
-
Có chuyện gì vậy? - Anh ta nói và đặt cốc cà phê
xuống.
-
Tớ đã dự đoán trước là sẽ xảy ra chuyện này.
-
Chuyện xảy ra như thế nào? - Giọng anh rất bình
tĩnh, chúng tôi cảm thấy anh đang xúc động mãnh
liệt.
Cái tên Openshaw đã đập vào mắt tôi và đề mục "Câu
chuyện tang thương ở cầu Waterloo" được viết như thế
này :
"Tối qua vào khoảng 21 - 22 giờ, nhân viên cảnh sát
có tên Cook trong lúc đang tuần tra canh gác cầu
Waterloo, có nghe thấy tiếng kêu cứu và tiếng nước
"bõm". Nhưng do trời tối đen như mực, gió thét ào
ào, cho nên mặc dù chạy đến cứu giúp, vẫn không vớt
được kẻ chìm dưới sông. Cảnh sát lập tức nổi còi báo
động, và nhờ chiếc xuồng cấp cứu xác chết đã được
tìm thấy. Đó là một chàng trai trẻ, tên anh ta theo
phong bì tìm thấy trong người là John Openshaw, sống
gần Horsham. Người ta đoán anh ta vì quá vội để đi
chuyến tàu cuối cùng xu ất phát từ ga Waterloo,
trong bóng đêm mịt mùng và đã bị trượt chân lọt
xuống dưới cầu. Trên thi hài nạn nhân không th ấy
phát hiện một dấu vết đánh đập hành hung nào. Không
thể nghi ngờ gì nữa, anh ta đã mất mạng trong trường
hợp đáng ti ếc. Điều đó bắt buộc chính quyền địa
phương phải chú ý đến tình trạng chiếc cầu".
Chúng tôi lặng đi mấy phút. Tôi chưa hề nhìn thấy
Sherlock m ệt nhọc đến như thế.
-
Cái đó đã giáng một đòn chí mạng vào tính tự ái của
tớ, - Cu ối cùng anh thốt lên đau đớn. - Không thể
chối cãi và bào chữa được điều gì, tính tự ái là một
thứ tình cảm nhỏ nhen ích kỷ, nó không giải quyết
được việc gì cả. Bây giờ câu chuyện này trở thành
việc riêng của tớ, và nếu chúa có ban cho tớ một s
ức khỏe thì tớ sẽ tóm gọn cả băng sát nhân ấy. Anh
ta hoảng sợ đến nhờ tớ giúp đỡ, thế mà tớ lại đẩy
anh ta đến chỗ chết.
Anh đứng dậy khỏi chiếc ghế, bước đi bước lại trong
căn phòng, khuôn mặt trắng bệch bừng bừng tức giận.
Anh hết bóp lại thả ra những ngón tay dài và nhỏ
nhắn của mình một cách điên tiết.
-
Những con quỷ láu cá! - Cuối cùng anh thét lên, -
Làm thế nào mà chúng lừa phỉnh được anh chàng để
nhấn chìm xuống đáy sông? Bờ sông không phải là con
đường dẫn tới nhà ga. Còn trên cầu thậm chí trời có
tối đi chăng nữa cũng còn rất nhi ều người. Watson
chúng ta thử xem ai là người chiến thắng trong hiệp
này. Tớ đi đây.
-
Tới đồn cảnh sát à?
-
Không, tớ sẽ làm cảnh sát. Tớ sẽ giăng một tấm lưới
như t ấm mạng nhện, và cứ để cho cảnh sát đến bắt
những con ruồi trong đó, nhưng không dễ làm ngay bây
giờ.
Cả ngày hôm đó, tôi mắc công việc chữa bệnh. Khi
quay về hẻm Baker thì trời đã tối từ lâu.
Sherlock Holmes vẫn chưa về. Khi anh về thì đã hơn
21 giờ đêm, người bơ phờ, nhợt nhạt. Anh đến tủ đựng
thức ăn, lấy một mẩu bánh mì cho vào miệng nhai ngấu
nghiến và nuốt ừng ực những ngụm nước lớn.
-
Cậu đói lắm phải không? - Tôi nhận xét.
-
Đói gần chết đây. Tớ làm quên cả ăn, kể từ buổi ăn
lót dạ sáng đến giờ.
-
Thế cậu nhịn à?
-
Không có lấy một hột. Tớ không có thời gian rỗi để
nghĩ đến chuyện ăn uống nữa.
-
Còn công việc của cậu ra sao?
-
Rất tốt đẹp.
-
Cậu đã tìm ra chìa khóa vén mở điều bí mật chưa?
-
Bọn nó đã nằm gọn trong lòng bàn tay tớ. Rồi chàng
Openshaw trẻ tuổi kia không còn bao lâu nữa sẽ được
rửa h ận. Watson, chúng mình sẽ dán nốt cái nhãn
hiệu ma quỷ chính thống của chúng nó. Chẳng nhẽ, đó
là điều không hay?
-
Cậu nói về cái gì thế?
Holmes lấy từ trong chạn ra một quả cam. Rồi anh bóc
nó ra từng múi, và cẩn thận nhặt mấy hạt để lên bàn.
Anh ta nhặt nắm hột cho vào chiếc phong bì. Phía
trong phong bì anh viết:
"S.H gửi cho J.O".
Sau đó anh dán phong bì lại và ghi địa chỉ ở ngoài
"Gởi ngài thuyền trưởng James Calhoun, thuyền buồm
Ngôi sao đơn độc Savannah, Georgia".
-
Bức thư sẽ đợi Calhoun khi hắn ta cập bến - Holtnes
vừa nói vừa cười. - Điều này, sẽ làm cho hắn mất ăn
mất ngủ. Tớ tin r ằng, hắn sẽ chịu chung cái số phận
như số phận của ngài Openshaw.
-
Thuyền trưởng Calhoun là ai vậy?
-
Hắn là thủ lĩnh của cả bọn khốn kiếp ấy. Dần dần tớ
sẽ lần ra những thằng khác nữa. Hắn là thằng đầu
tiên.
-
Bằng cách nào mà cậu tìm ra chúng nó?
Holmes lôi ra từ trong túi một tờ giấy cỡ lớn ghi
chép chi chít những năm tháng và tên người...
-
Cả ngày tớ chỉ chúi đầu sục vào các tập hồ sơ, giấy
má cũ, theo dõi số phận của từng chiếc tàu đã cập
bến Pondicherry trong thời gian từ tháng giêng và
tháng hai năm 1883. Trong hai tháng ấy, có ghi lại
ba mươi sáu chiếc tàu có trọng tải khá lớn. Trong số
đó có chiếc "Ngôi sao đơn độc" làm cho tớ chú ý
nhất, bởi địa điểm cập bến là Luân Đôn. Hơn nữa
"Ngôi sao đơn độc" - một biệt danh của một bang bên
Mỹ.
-
Hình như bang Texas phải không?
-
Điều này chưa chắc chắn. Nhưng tớ biết con tàu đó đã
xuất phát từ bên Mỹ.
-
Có gì nữa không?
-
Tớ đọc lướt qua các mục ghi chép về ngày đến và ngày
đi c ủa tất cả tàu thuyền ở cảng Dundee. Và khi tớ
thấy chiếc thuy ền buồm "Ngôi sao đơn độc" đã cập
bến Dundee trong tháng giêng năm 1885 thì mọi nghi
ngờ của tớ đã chuyển sang kh ẳng định. Tớ lập tức
lục tìm bảng chỉ dẫn có liên quan tới nh ững chiếc
tàu thuyền đã đậu ở cảng Luân Đôn trong thời gian
hiện nay.
-
Cậu có thấy được gì không?
-
"Ngôi sao đơn độc" vừa cập bến Luân Đôn trong tuần
trước. Tớ vội chạy đến chỗ Albert Dock và được biết
đúng hôm nay, lúc thuỷ triều lên sớm "Ngôi sao đơn
độc" đã rời bến ra sông đ ể quay về cảng Savannah.
Tớ đã điện tới Gravesend và được báo cho biết "Ngôi
sao đơn độc" vừa mới qua đấy không lâu. Và do gió
hướng đông nên tớ không nghi ngờ gì hết. "Ngôi sao
đơn độc" đã vượt qua Goodwins và hiện giờ đang cách
không xa hòn đảo Wight.
-
Cậu định hành động ra sao?
-
Ồ! Kelgun đang nằm trong tay tớ! Hắn với hai tên
thủy thủ - là những tên người Mỹ duy nhất trên tàu.
Những người còn lại là người Phần Lan và người Đức.
Thậm chí tớ còn được biết tối hôm qua cả ba đứa đều
không có mặt trên thuyền. Người khuân vác đã cho tớ
biết chi tiết ấy. Ông ta làm nhiệm vụ bốc vác trên
chiếc thuyền buồm "Ngôi sao đơn độc". Khi thuyền
"Ngôi sao đơn độc" cập bến Savannah, thì tàu thuỷ đã
mang b ức thư của tớ tới trước rồi. Còn bức điện tớ
báo cho cảnh sát ở Savannah là phải bắt ngay ba tên
người Mỹ vì tội đã giết người.
Tuy nhiên, trong mọi dự tính cẩn thận nhất của con
người, bao giờ cũng có một chỗ sơ hở nào đó. Những
kẻ đã giết hại cả gia đình Openshaw kia, chưa phán
đoán được là sẽ nhận được những hột cam do người
khác gửi cho chúng. Mà con người ấy, cũng kiên
quyết, láu cá như bọn chúng nó. Con người đó, đã lần
ra dấu vết chúng nó.
Trong năm ấy những trận cuồng phong thật là dữ dội,
kéo dài dai dẳng. Chúng tôi chờ đợi tin tức của
chiếc thuyền buồm "Ngôi sao đơn độc" rất lâu, nhưng
tất cả đều không đúng như chúng tôi mong đợi.
Cuối cùng chúng tôi mới được biết là ở một nơi xa
xôi nào đó trên bờ Đại Tây Dương, người ta đã nhìn
thấy chiếc đuôi tàu bị vỡ, dập dềnh theo sóng biển.
Trên đó người ta đã nhìn thấy nh ững chữ "N. S. Đ.
Đ". Đó là tất cả những gì chúng tôi được bi ết về số
phận của "Ngôi sao đơn độc".
Hết |