Vào mùa xuân năm 1894, cả thành
phố Luân Đôn đều bàn tán xôn xao về vụ ám sát bá
tước Ronald Adair trẻ tuổi. Vụ ám sát xảy ra trong
một bối cảnh khác thường và đầy bí ẩn. Đông đảo công
chúng đều biết đến những tình tiết của vụ án, theo
cách đánh giá chủ quan của cảnh sát. Nhưng vì lý do
nào đó, phần l ớn những tình tiết phải giấu kín.
Mười năm trôi qua, hiện giờ tôi mới có khả năng bổ
sung thêm những mắt xích còn thiếu trong chuỗi sự
kiện đầy bí ẩn kia. Bản thân vụ án đã là một đi ều
lý thú; nhưng những hậu quả không lường trước được
đối v ới tôi còn quan trọng hơn gấp nghìn lần. Những
hậu quả này làm cho tôi bàng hoàng, chấn động hơn
tất cả những gì mà tôi từng gặp trong đời mình; dù
cuộc đời của tôi nếu không có sự kiện ấy thì cũng đã
chứng kiến nhiều cuộc trinh thám ly kỳ.
Thậm chí ngay bây giờ, sau nhiều năm, tôi vẫn còn
cảm giác run sợ, khi nghĩ l ại câu chuyện xa xưa, và
tôi vẫn bị một nỗi hoài nghi, thảng thốt, vui buồn l
ẫn lộn bao trùm và xâm chiếm toàn bộ tâm hồn. Tôi
mong các bạn độc giả, vẫn thường quan tâm tới những
mẩu chuyện của tôi về những việc làm và nh ững suy
luận của một con người tuyệt vời hãy tha th ứ cho
tôi, vì việc tôi không chia sẻ với các bạn điều khám
phá của mình. Tôi t ự đặt cho mình một nghĩa vụ là
phải báo cho các bạn tất cả sự thật, một khi tôi
không còn bị ràng buộc bởi chuyện cấm đoán xuất phát
từ chính ý muốn của bạn tôi. Câu chuyện ngăn cấm
được phát ra cũng vừa mới đây, ngày mồng ba tháng
trước.
Trong thời gian tôi và Sherlock Holmes còn gắn bó
mật thiết v ới nhau tôi đã quan tâm một cách sâu sắc
tới những chuyện hình sự. Kể từ khi anh biệt tăm mất
tích, tôi trở thành kẻ thường xuyên theo dõi trên
các báo chí tất cả các vụ án chưa được khám phá. Đội
lúc, để thỏa mãn tính hiếu kỳ, tôi đã có ý định tham
gia vào chuyện phá án, tôi sử dụng những phương pháp,
thủ thuật như của bạn tôi thường làm, mặc dù còn lâu
tôi mới đạt được trình độ ấy.
Tuy thế, không có vụ án nào lại làm cho tôi hồi hộp,
lo âu bằng câu chuyện tang thương của Ronald Adair.
Trong số tài liệu đi ều tra, có đoạn nói thế này:
"Vụ
ám sát đã được tính toán từ trước và do một người
hoặc một nhóm người lạ thực hiện".
Sau khi đọc xong lời nhận xét như vậy, tôi càng thấy
thấm thía hơn bao giờ hết rằng cái chết của Sherlock
Holmes đã gây cho Tổ quốc chúng ta một tổn thất to
lớn biết nhường nào. Trong chuyện này, nhất thiết
phải có những tình tiết làm cho Sherlock Holmes chú
ý; và như vậy hoạt động của cảnh sát sẽ được bổ sung
đầy đủ và đạt kết quả hơn nếu như họ có sự giúp sức
của bộ óc thông minh và đôi mắt quan sát tinh tế của
nhà thám tử sành sỏi nhất Châu Âu này.
Sau khi đi thăm bệnh nhân cả ngày về, tôi lại tập
trung vào nh ững suy nghĩ làm tôi nhức đầu, đó là
câu chuyện của Adair, nhưng tôi không thể nào tìm ra
được một lời giải đáp thỏa đáng. Tôi đánh bạo lặp
lại những gì mà mọi người đã biết, tôi cũng muốn nêu
lên những dữ kiện theo dạng đã được thông báo cho
công chúng biết, sau khi kết thúc cuộc điều tra.
Ngài Ronald Adair là con trai thứ hai của bá tước
Maynooth - Bá tước Maynooth là tổng đốc toàn quyền
một khu vực thuộc địa của người Anh ở Áo. Người mẹ
của Adair đã từ Áo đến nước Anh để giải phẫu mắt,
cắt bỏ cái vây mọc ở mắt; và đã cùng cậu con trai
Adair và cô con gái Hilda sống ở Park Lane, số nhà
427.
Chàng thanh niên thường giao du với những người tốt,
và hình như không có địch thủ nào; cũng chưa làm gì
đáng chê trách. Đã có thời chàng đã đính hôn với
tiểu thư Edith Woodley ở bang Carstairs, nhưng trước
khi xảy ra vụ án mạng vài tháng thì cả chú rể lẫn cô
dâu đã quyết định chia tay nhau: không ai hối hận về
chuyện này cả. Nói chung, cuộc đời của chàng thanh
niên trai trẻ chỉ bó hẹp trong quan hệ gia đình và
trong gi ới thượng lưu. Tính tình anh ta điềm đạm,
thói quen và sở thích không có gì xấu. Thế nhưng một
cõi chết bất ngờ nhất và kỳ lạ nhất đã chợp đi một
nhà quý tộc trẻ vô tư. Chuyện đó x ảy ra vào khoảng
23 giờ 10 phút đến 23 giờ 20 phút ngày 30 tháng 3
năm 1894.
Ronald Adair là một người thích cờ bạc, nhưng chưa
bao giờ t ỏ ra vượt quá giới hạn. Anh ta là thành
viên của ba câu lạc bộ: Baldwin, Cavendish và
Bagathel. Người ta đã điều tra và xác đ ịnh rằng,
trong ngày bị giết, sau bữa cơm chiều, Ronalđ đã
chơi một ván bài ở câu lạc bộ Bagathel. Thậm chí,
trước bữa cơm chiều anh ta cũng có chơi ở đấy rồi.
Những người cùng chơi với anh ta là: ngài Murray,
ngài John Hardy và ngài đại tá Moran.
Adair bị thua mất năm bảng Anh. Gia tài của anh ta
khá lớn, nên việc thua bạc như vậy không làm cho anh
ta bận tâm chút nào. Anh ta hầu như ngày nào cũng
chơi và thường là được b ạc.
Những lời khai của các nhân chứng đã làm sáng tỏ
thêm một chuyện. Là khoảng một tháng rưỡi trước khi
bị giết, Adair cùng chơi với ngài đại tá Moran, một
buổi tối đã ăn của ngài Godfrey Milner và huân tước
Balmoral 420 bảng. Đấy là tất cả những gì biết được
về những tuần cuối cùng của đời anh ta.
Vào buổi tối bất hạnh đó, anh ta từ câu lạc bộ trở
về nhà đúng 22 giờ đêm. Mẹ và em gái anh ta đi vắng:
họ đi thăm người quen chưa về. Người hầu gái thề
rằng, cô ta đã nghe thấy anh ta bước vào phòng của
mình. Căn phòng ấy nằm trên tầng hai, cửa sổ hướng
ra đường phố, anh dùng làm phòng tiếp khách. Trước
khi bá tước trẻ tuổi về, người hầu gái vừa nhóm lò
sưởi xong, lò sưởi vẫn còn bốc khói nghi ngút, cô ta
phải mở toang các cửa sổ để thoáng khói. Trước 23
giờ 20 phút không hề nghe một động tĩnh nào phát ra
từ căn phòng của bá tước. Lúc ấy bà Maynooth và cô
con con gái về đến nhà. Bà Maynooth muốn ghé lại chỗ
cậu con trai để chúc cậu ngủ ngon, nhưng cánh cửa
phòng đã được khóa chặt bên trong; mặc cho người ta
gào thét, đập cửa, không một ai lên tiếng. Thấy vậy
người mẹ hô hoán lên, bắt người nhà phải phá cửa.
Chàng thanh niên xấu số đang nằm gục dưới sàn nhà,
ngay cạnh chiếc bàn. Đầu anh ta bị một viên đạn súng
lục bắn thủng, trông thật khủng khiếp. Nhưng rất kỳ
lạ là trong phòng không thấy một th ứ vũ khí nào hết.
Trên bàn có hai tờ ngân phiếu trị giá 10 bảng Anh và
17 đồng b ảng Anh với 10 silinh, bằng bạc có, bằng
vàng có. Những đồng bạc được xếp thành từng chồng
nhỏ với từng loại giá trị khác nhau. Bên cạnh những
đồng bạc là một tờ giấy có ghi những con số và ngang
hàng với những con số đó là tên những người bạn cùng
câu lạc bộ của Adair. Từ dữ kiện này có thể rút ra m
ột nhận xét: Trước khi chết, chàng trai đã tính toán
những ván thua, thắng bạc của mình.
Sau khi nghiên cứu kĩ các dữ kiện, công việc càng
trở nên rối rắm, mù mịt hơn. Một điều làm chúng ta
khó hiểu: vì sao chàng trai phải khóa chặt cửa từ
bên trong? Thực ra kẻ giết người cũng có thể khóa
cửa, rồi trèo qua cửa số để tẩu thoát.
Nhưng dưới những cánh cửa sổ là những bồn hoa hồng
lại không hề bị dẫm nát; hơn nữa từ cửa sổ đến mặt
đất phải đến 20 foot. Không một cây hoa nào bị giầy
xéo, làm nát. Ngay cả lớp đất giữa nhà và con đường
cũng không hề có một dấu vết nào. Rõ ràng là chính
Adair đã tự tay khóa cửa. Nhưng sao cái chết lại đột
ngột dội vào đầu anh ta? Cứ giả thiết rằng tên sát
nhân đã bắn qua cửa sổ, thì đó phải là một phát súng
rất đặc biệt, vì chỉ bằng một viên đạn súng lục đã
giết chết chàng trai ngay lập tức với một khoảng
cách quá xa như vậy thì đâu phải chuyện dễ dàng? Hơn
nữa, Park Lane là một đường phố nhộn nhịp, đông
người qua lại; cách nhà 100 acđơ có một trạm xe ngựa.
Không một người nào nghe thấy tiếng súng nổ. Vậy mà,
có một người bị ám hại nằm xuống chỉ với một viên
đạn súng l ục bắn xuyên thủng đầu? Xét theo vết
thương thì chính viên đ ạn kia là nguyên nhân gây ra
tử vong. Bối cảnh vụ án đầy bí ẩn ở Park Lane là như
vậy! Một vụ giết người có ẩn số đầy bí hi ểm bởi
thiếu hoàn toàn những nguyên do xác đáng, lôgic. Anh
bạn trẻ Adet không hề có địch thủ, còn tiền nong
cũng như gi ấy tờ quý giá khác thì không hề suy
suyển.
Suốt ngày tôi suy đi, nghĩ lại trong óc tất cả những
dữ kiện ấy, với tham vọng cố đặt ra cho nó một giả
thiết có phần nào phù hợp và đủ sức thuyết phục.
Tôi cố gắng tìm ra "điểm ít khả năng bị bác bỏ nhất"
điều mà người bạn xấu số của tôi luôn luôn lấy làm
kim chỉ nam cho các công cuộc khám phá. Tôi thành
thật thú nhận mình hoàn toàn không đạt được ý đồ đó.
Buổi chiều tôi thơ thẩn, lang thang trong công viên:
khoảng 18 giờ, bỗng dưng tôi đi đến góc phố giữa
đường Park Lane và đường Oxford không hề có ý định
trước. Tôi thấy một nhóm người vô công rồi nghề đang
túm năm tụm ba, nhòm ngó vào một chiếc cửa sổ ngôi
nhà đã xảy ra vụ án mạng đầy bí ẩn. M ột gã đàn ông
cao, gầy đeo kính râm to, - tôi nghĩ chắc là một
thám tử giả dạng - đang thử nêu một giả thiết về án
mạng, nh ững người tò mò bao quanh ông ta chật cứng,
chăm chú lắng nghe. Tôi cũng định xán lại, nhưng khi
nghe loáng thoáng nh ững nhận định, phán đoán ngu
xuẩn, tôi có cảm giác kinh tởm và thối lui. Vô tình
tôi đụng phải một ông già gù lưng đứng phía sau, mấy
cuốn sách mà ông ta đang kẹp nách bị rơi ra. Trong
lúc cúi xuống nhặt giúp mấy cuốn sách cho ông lão,
tôi chợt đ ọc thấy một tên sách "Sự ra đời và việc
sùng bái cỏ cây". Tôi thoáng nghĩ: thật là một con
mọt sách tội nghiệp; chắc vì để ki ếm sống, hoặc vì
yêu thích nghệ thuật, nên đã cố sưu tầm nh ững cuốn
sách quý hiếm. Tôi định nói vài câu xin lỗi cho sự
vô tình của mình đã làm rơi những vật mà chủ nhân
của nó nâng niu, trân trọng; nhưng ông già càu nhàu,
tức tối và khinh khỉnh quay đi. Chỉ một loáng cái
lưng gù gù và bộ râu quai nón bạc tr ắng của ông đã
lẩn vào đám đông.
Những quan sát ở ngôi nhà 427 phố Park Lane đã giúp
tôi được chút ít trong công việc khám phá lời giải
đáp mà tôi quan tâm. Ngôi nhà được ngăn cách với
đường phố bằng một bức tường thấp, trên tường có
chăng dây thép. Dây thép cao chưa đến 5 foot. Mọi
người dễ dàng lọt được vào vườn. Nhưng trèo lên cửa
số thì khó thực hiện được, vì không có ống thoát
nước, không hề có một cái gờ nào nhô ra, cho nên
ngay cả m ột nhà thể thao điêu luyện nhất cũng không
thể trèo lên theo b ức tường được.
Càng thấy mơ hồ hơn, tôi quay về phố Kensington để
về nhà. Tôi bước vào phòng mình chưa đầy 5 phút thì
người hầu gái đã báo với tôi là có một người khách
muốn gặp tôi. Tôi thật sửng sốt và ngạc nhiên, vì đó
không phải ai xa lạ, mà chính là ông già gù gù,
thích sưu tầm sách quý tôi gặp lúc chiều. Bộ tóc b
ạc phau, trùm gần kín khuôn mặt nhăn nheo, nhọn hoắt
của ông. Ông kẹp ở nách có đến một tá những cuốn
sách loại quý:
-
Chắc ngài rất ngạc nhiên vì sự có mặt của tôi? - Ông
ta hỏi với giọng the thé rất kì dị.
Tôi thú nhận là ông ta đoán đúng.
-
Ngài thấy không, tôi là một người lịch sự. Tôi lững
thững đi theo con đường mà ngài đi, tôi chợt thấy
ngài bước vào ngôi nhà này. Tôi tự nhủ với mình là
cần ghé lại gặp con người lịch thiệp kia để xin lỗi.
Nếu tôi có thô thiển lố bịch với ngài, thì thú thật
tôi cũng không có ý định làm cho ngài bực dọc. Tôi
mang ơn ngài rất nhiều, vì ngài đã hạ cố cúi nhặt
giúp tôi những cuốn sách.
-
Chuyện nhỏ nhặt ấy, không nên bận tâm làm gì - Tôi
đáp - Ngài cho phép tôi được hỏi, làm sao ngài biết
được tôi là người như thế nào?
-
Tôi cũng xin mạnh dạn nói với ngài rằng là hàng xóm
láng gi ềng với ngài. Tiệm sách bé nhỏ của tôi nằm ở
góc phố Church, tôi rất hân hạnh nếu được ngài ghé
lại chơi. Có lẽ ngài cũng là người ham mê sách? Tôi
xin giới thiệu với ngài đây là cuốn "Những giống
chim ở British", "Catullus", "Cuộc chiến tranh
thiêng liêng". Ngài mua đi, tôi sẵn sàng bán giá rẻ.
Năm tập này, vừa vặn đủ lấp kín chỗ trống ở ngăn thứ
hai tủ sách của ngài. Tôi thấy hình như giá sách của
ngài không được đẹp mắt lắm thì phải, thưa ngài?
Tôi ngoái cổ để nhìn lại giá sách, khi quay lại thì
tôi không thể tin ở mắt mình được nữa: Sherlock
Holmes đang đứng ngay bên chiếc bàn của tôi và đang
cười. Tôi khuỵu xuống vài giây.
Tôi ngơ ngác nhìn anh, và sau đó thì, có lẽ đó là
lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng, tôi đã bị
ngất. Tôi chỉ mang máng nhớ là có một đám mây xám
đang nhập nhòa trước mắt. Khi đám mây tan biến đi,
tôi thấy cổ áo của mình bị mở phanh ra và tôi ngửi
thấy thoang thoảng mùi rượu Cô nhắc. Holmes vẫn đứng
đấy trên tay cầm chai rượu, đầu hơi cúi xuống.
-
Watson thân mến! - Một giọng nói khá thân thuộc cất
lên - nghìn lần tớ xin lỗi cậu. Tớ không ngờ cái ấy
lại gây cho cậu một xúc động mạnh như vậy.
Tôi nắm lấy tay anh.
-
Holmes! - Tôi thốt lên. - Có phải thật cậu không?
Chẳng lẽ c ậu vẫn còn sống ư? Không thể nào tin được,
làm sao cậu vượt lên được cái thác nước khủng khiếp
ấy?
-
Hãy đợi chút đã. - Anh nói. - Không biết cậu đã bình
tĩnh lại chưa? Rõ ràng sự xuất hiện quả đường đột
của tớ đã làm cho cậu choáng váng.
-
Tớ đã bình tĩnh lại rồi. Nhưng thú thật với cậu, tớ
không còn tin vào mắt mình nữa. Thật hú vía! Chẳng
lẽ chính cậu đấy ư? Không phải ai khác đang đứng
trong phòng tớ đấy chứ?
Tôi lại nắm lấy cánh tay anh và bóp nắn cánh tay gân
guốc.
-
Đúng rồi, chính là cậu rồi, không còn nghi ngờ gì
nữa, - Tôi ti ếp. - Bạn yêu mến của tôi ơi! Tớ hạnh
phúc biết bao khi được gặp lại cậu! Hãy ngồi xuống
cái đã, và hãy kể vắn tắt cho tớ nghe, bằng cách nào
cậu thoát khỏi vực thẳm kia?
Holmes ngồi xuống đối diện với tôi, với dáng điệu
quen thuộc như xưa, anh lấy thuốc ra châm hút. Anh
vẫn đang mặc chiếc áo đã sờn với dạng của người bán
sách cũ, nhưng những thứ dùng để cải trang như bím
tóc bạc, túi đựng sách cũ... đã nằm trên bàn. Tôi có
cảm giác anh gầy hơn xưa, cái nhìn của anh có vẻ sắc
sảo hơn. Khuôn mặt trắng xanh nhợt nhạt của anh
chứng tỏ trong thời gian qua, anh đã nếm nhiều khổ
cực, đã tr ải qua một chặng đường đời khắc khổ không
có lợi cho sức khoẻ.
-
Watson, được duỗi thẳng người ra thật khoan khoái! -
Anh lên tiếng - Một người cao lớn như tớ, không dễ
dàng gì mà rút đi một foot; và bắt buộc giữ tình
trạng đó suốt mấy tiếng đồng hồ. Bây giờ, chúng ta
sẽ đề cập đến những vấn đề cực kỳ nghiêm trọng... Tớ
muốn cầu cứu sự giúp đỡ của cậu, nếu c ậu không phản
đối. Cả hai chúng mình sẽ phải thức trắng suốt đêm
nay với một công việc nặng nhọc đầy nguy hiểm. Tốt
nh ất, nên để chuyện cuộc phiêu lưu của tớ đến lúc
công việc kia giải quyết xong xuôi.
-
Nhưng tớ đang cháy ruột, cháy gan vì tò mò. Holmes,
tớ nóng lòng được cậu kể ngay bây giờ.
-
Cậu có đồng ý đi với mình đêm nay không?
-
Đi bất cứ nơi đâu, bất kỳ lúc nào, tùy cậu.
-
Hoàn toàn như ngày xưa. Chúng ta vẫn còn kịp giải
lao cho thư thả trước lúc lên đường... Nào, bây giờ
tớ bắt đầu câu chuyện về cái thác nước. Nguyên nhân
đơn giản làm cho tớ lên được khỏi vực thẳm, là tớ
chưa hề bị rơi xuống đó.
-
Cậu không bị rơi xuống vực à!
-
Đúng thế, Watson ạ, không hề bị rơi. Thế nhưng, mẩu
thư tớ viết cho cậu hoàn toàn là sự thật. Khi bóng
dáng độc ác của giáo sư Moriarty xuất hiện trên lối
mòn chật hẹp, chặn ngăn con đường giải thoát duy
nhất của tớ, lúc ấy nghĩ, mọi chuyện đối với tớ như
vậy đã chấm dứt. Trong đôi mắt màu nâu của h ắn, tớ
đọc được quyết định không thể nào lay chuyển nổi về
s ố phận của tớ. Tớ trao đổi với hắn vài ba câu, hắn
lịch sự cho phép tớ được viết một mẩu tin ngắn ngủi,
cậu đã nhận được b ức thư. Tớ để lá thư cùng hộp
thuốc và cây gậy lại, còn tự mình đi theo lối mòn
tiến về phía trước. Moriarty đi theo sau tớ từng
bước một. Khi đến đoạn cuối cùng của lối mòn, tớ
dừng l ại, bởi có đi tiếp cũng không còn đường nào
hết. Hắn không thèm lấy ra một thứ vũ khí gì, vội
lao vào tớ và hắn dùng đôi tay dài ngoằng của mình
chộp lấy tớ. Hắn biết, cuộc đời của h ắn đã tới số,
hắn chỉ cần thực hiện một việc là trả thù tớ. Không
thèm buông ra, tớ với hắn giằng co ngay bên mép vực
thẳm. Nhưng, nhờ tớ biết vài miếng võ Judo Nhật Bản,
khoản này đã giúp tớ không ít trong công việc, tớ
kịp thoát ra khỏi người hắn.
Hắn thét lên nghe thật man rợ, loạng choạng vài giây,
hai tay chới với trong không trung. Mặc dù hắn cố
gắng hết sức, nhưng vẫn không thể giữ nổi thăng bằng
và ngã xuống. Đứng trên bờ vực thẳm, tớ nhìn theo
rất lâu xem hắn bị rơi xuống v ực như thế nào? Tớ
thấy hắn va vào gờ của một tảng đá và chìm nghỉm
dưới nước.
Tôi lắng nghe Holmes kể với tâm trạng hồi hộp vô
cùng. Còn anh vẫn thản nhiên, vừa kể vừa thả khói
thuốc một cách khoan thai.
-
Nhưng còn các vết chân! - Tôi thốt lên. - Chính tớ,
bằng mắt mình đã trông thấy rõ rành rành hai dãy
bước chân cùng đi lên theo lối mòn, dấu quay lại
không hề có.
-
Chuyện ấy xảy ra như thế này. Trong giây phút, khi
giáo sư Moriarty rơi xuống vực; tớ hiểu rằng, vận
may đã đến với tớ m ột cách không ngờ. Tớ biết rằng
không phải chỉ có một mình Moriarty đang tìm cách
giết tớ. Ít nhất phải có ba tên đồng b ọn, cái chết
của thủ lĩnh sẽ đốt cháy trong tim bọn nó một sự
khao khát trả thù. Đó là một lũ người cực kỳ nguy
hiểm. Trong tương lai, sẽ có một tên nào đó trong
bọn chúng thực hiện mưu đồ làm hại tớ. Nếu chúng
nghĩ rằng tớ đã chết, thì chúng sẽ hành động trắng
trợn hơn, ít đề phòng và dễ dàng để lộ tung tích,
lúc ấy, sớm hay muộn rồi tớ cũng có ngày tiêu diệt
được chúng nó. Chỉ đến lúc này, tớ mới thông báo cho
mọi người bi ết tớ vẫn còn sống! Bộ não của con
người làm việc rất nhanh, Moriarty chưa kịp xuống
tới đáy của vực nước Reichenbach t ớ đã nghĩ xong kế
hoạch đối phó rồi. Tớ đứng lên và quan sát bức tường
đá sừng sững ở sau lưng. Trong đoạn miêu tả về cái
chết tang thương của tớ, mà tớ rất thú vị đọc sau đó
vài tháng, cậu cho rằng: bức tường đá hoàn toàn dựng
đứng và trơn tuột. Không phải đúng hết như vậy. Trên
tảng đá có vài ch ỗ gờ nhô ra, có thể đặt chân, bám
vào được. Ngoài ra dựa vào các dấu hiệu, tớ tin sẽ
có một cái hốc nào đấy ở trên cao.... Mỏm đá khá cao,
rõ ràng không thể nào trèo lên đỉnh được, và cũng
không thể đi theo lối mòn ẩm ướt mà không để lại dấu
v ết. Thực ra tớ cũng có thể mang giày cho gót lộn
ngược cũng được, như tớ đã từng làm trong những
trường hợp tương tự; nhưng ba dấu giày cùng đi theo
một hướng, không thể tránh khỏi sự nghi ngờ rằng cố
ý đánh lừa được.
Vì vậy tốt nhất cứ liều leo lên cao. Điều này không
phải là dễ, thác nước đang réo ầm ĩ phía dưới. Tớ có
cảm giác tiếng nói c ủa Moriarty đang gọi tớ từ đáy
vực thẳm vọng đến bên tai. Đôi lúc, khi một nắm cỏ
nằm lại trên bàn tay, hoặc bàn chân bị trượt theo
cái gờ đá ẩm ướt láng lầy, tớ nghĩ rằng mọi việc đã
kết thúc. Nhưng tớ vẫn tiếp tục bò lên, cuối cùng tớ
bò lên chỗ nứt lở khá sâu mọc đầy rêu xanh. Ớ đây,
tớ có thề nằm duỗi tay, duỗi chân mà không sợ ai
nhìn thấy, tớ nghỉ một lát cho s ảng khoái. Tớ đã
nằm ở đấy, trong lúc đó, cậu và những người được cậu
mời tới, đã hoài công dựng lên bức tranh về cái ch
ết của tớ.
Cuối cùng, sau khi đã rút ra kết luận hoàn toàn sai
lầm về nh ững diễn biến đã xảy ra, cậu quay về khách
sạn, còn tớ nằm l ại một mình. Tớ hình dung cuộc
phiêu lưu của tớ đã kết thúc, nhưng một việc khá bất
ngờ đã xảy ra, chứng tỏ là có một chuyện không kém
phần ly kỳ đang chờ đợi tớ. Có một hòn đá to vỡ ra
chợt bay vèo qua đầu tớ, rơi xuống lối mòn rồi rơi
xuống vực. Lúc đầu tớ cứ nghĩ đó là một chuyện tình
cờ. Nhưng, sau khi nhìn lên trên, tớ trông thấy một
cái đầu của người đàn ông in trên nền trời đang tắt
dần nắng. Đúng giây phút ấy, một hòn đá khác bay tới
ngay sát cái hõm mà tớ đang nằm, cách đầu tớ chỉ vài
inch. Tình thế đối với tớ đã quá rõ. Moriarty không
phải chỉ đến một mình. Tên đồng bọn của h ắn cũng
khá nguy hiểm, thằng này chắc đứng cảnh giới, khi th
ằng Moriarty xông vào tấn công tớ. Từ xa, hắn đã
chứng kiến cái chết của thủ lĩnh mình và thấy kẻ thù
của hắn đã thoát nạn. Sau khi chờ đợi một lúc, hắn
chạy vòng lên đỉnh bằng hướng khác và mưu toan thực
hiện việc mà Moriarty đã không thành công.
Watson, tớ suy tính chuyện này rất nhanh. Sau khi
nhìn quanh, tớ lại trông thấy bộ mặt dữ tợn của hắn
và hiểu rằng, h ắn là kẻ đã ném thêm viên đá nữa. Tớ
quyết định bò xuống đ ến lối mòn. Tớ không biết,
trong trạng thái bình thường, tớ có làm nổi chuyện
ấy hay không? Tuột xuống khó gấp cả nghìn l ần lúc
leo lên. Nhưng không hơi đâu mà đắn đo, suy tính.
Khi đó tớ đang treo người, hai tay bám vào mép của
khe đá. Một viên đá thứ ba bay vù qua đầu tớ. Tụt
được nửa đường, bỗng t ớ trượt chân một cái, nhưng
dẫu sao, tớ cũng đã đến lối mòn. Người bị rách bươm,
thấm đầy máu, ba chân bốn cẳng tớ cắm đầu cắm cổ
chạy. Trong đêm tối tớ chạy xuyên rừng, xuyên núi 10
dặm và một tuần sau tớ có mặt ở Flôrenx và tin chắc
r ằng: không một người nào trên đời này biết được số
phận của tớ.
Chỉ một người biết được bí mật, đó là anh trai tớ -
Mycroft. Nghìn lần xin lỗi cậu, Watson. Nhưng tớ bắt
buộc phải làm như vậy, cứ để mọi người tưởng tớ chết
thật là được rồi. Nếu không, không bao giờ cậu có
thể viết lên những điều khẳng đ ịnh chắc chắn về cái
chết của tớ, nếu cậu tin rằng đó là sự th ật. Trong
ba năm ấy, đôi lần tớ định viết thư cho cậu, nhưng m
ỗi lần như vậy, tớ đành phải dằn lòng, vì sợ rằng
mối mật thiết quá ư chặt chẽ giữa cậu và tớ sẽ dễ
làm cho cậu có sơ suất, và sẽ lộ điều bí mật của tớ.
Vì sao chiều nay tớ phải tránh mặt cậu, khi cậu làm
rơi sách của tớ? Tớ thật liều lĩnh, nếu như c ậu kêu
lên vì kinh ngạc hoặc vì vui mừng, mọi người sẽ nhìn
ch ằm chằm vào tớ chuyện đó sẽ dẫn đến hậu quả không
thể cứu chữa được. Còn phải nói cho anh Mycroft, thì
cực chẳng đã tớ mới thú thật mà thôi, bởi tớ rất cần
một món tiền để tiêu xài.
Công việc ở Luân Đôn giải quyết rất tệ, tệ hơn là tớ
mong đợi. Sau khi ra tòa, trong băng của Moriarty,
còn hai tên đang nằm ngoài vòng pháp luật. Đó là hai
tên cướp rất nguy hiểm, cả hai thằng đều là kẻ tử
thù của tớ. Vì thế, tớ đã đi chu du trong hai năm ở
vùng Tibet, và đến thăm thành phố Lhassa, thậm chí
còn bỏ cả mấy ngày đến thăm giới tu hành tăng lữ. Có
lẽ cậu đã đọc bài báo nói về vụ chấn động lớn của
một người Na Uy, mang tên Sigerson, nhưng cậu làm
sao có thể nghĩ rằng, bài ấy là của bạn mình. Tớ còn
đi thăm vài nơi ở vương quốc Ả R ập, chuyến đi thăm
do tớ đề nghị lên ngài Bộ trưởng ngoại giao.
Sau khi quay về Châu Âu, tớ ở lại thăm nước Pháp vài
tháng, ở đây tớ tham dự vào công cuộc nghiên cứu,
phân tích những chất lấy từ một vùng than đá. Việc
này tớ làm ở một phòng thí nghiệm thuộc miền Nam
nước Pháp - Montpellier, sau khi kết thúc tốt đẹp
thí nghiệm và biết được hiện nay ở Luân Đôn chỉ còn
sống sót một kẻ thù không đội trời chung của tớ, tớ
suy tính chuyện trở về. Lúc đó tớ nghe tin vụ ám sát
đầy bí ẩn ở phố Parka Leyn và nóng lòng ra đi. Tớ
cũng đã nghiên cứu kỹ vụ này rồi. Đáp số của vụ án
mạng sẽ giúp tớ thực hiện ý định của riêng mình. Thế
là, tớ vội vã quay về Luân Đôn. Tự tớ đến hẻm Baker,
và đã làm cho bà Hudson bị một phen hoảng sợ, lên
cơn thần kinh. Anh trai tớ vẫn trông nom căn phòng
và mọi giấy tờ vẫn nguyên vẹn như lúc tớ ra đi. Ngày
hôm nay, lúc 14 giờ, tớ đã ghé vào căn phòng cũ của
mình, ngồi vào chiếc ghế bành thân quen, và chỉ mong
ước một điều duy nhất là làm sao cho người bạn cũ
Watson của mình được cùng ngồi ung dung trong một
chiếc ghế bành khác mà anh ta vẫn thường ng ồi.
Câu chuyện kinh hoàng tôi đã được nghe trong buổi
tối tháng tư là như vậy đấy. Tôi khó lòng tin đó là
sự thật. Mặc dù chính mắt tôi đã trông thấy thân
hình cao, gầy và khuôn mặt thông minh, cương nghị
của người bạn mà tôi nghĩ rằng, không bao giờ tôi
còn gặp lại. Không biết bằng cách nào, Holmes đã rõ
cái chết của vợ tôi, sự thương cảm được thể hiện
trong giọng nói của anh:
-
Làm việc! Đó là cách tốt nhất để khuây khỏa nỗi đau
khổ, Watson yêu quí - Anh động viên an ủi tôi.
-
Khuya hôm nay, có công việc đang chờ chúng mình.
Người có diễm phúc hoàn thành sứ mệnh một cách tốt
đẹp có thể m ạnh dạn tuyên bố rằng, anh ta đã sống
một cuộc đời không ph ải là uổng phí, vô ích.
Tôi đã mất công để thuyết phục anh giải thích cho rõ.
-
Đến sáng mai, cậu sẽ được nghe, được thấy đầy đủ, -
Anh đáp. - Còn bây giờ không cần nói tới chúng ta
còn khối chuy ện để tâm sự. Cậu biết đấy, đã ba năm
rồi chúng mình không được nhìn thấy nhau. Hy vọng
chúng ta sẽ tâm sự đến 21 giờ 30 phút, rồi sẽ lên
đường, đón nhận một cuộc phiêu lưu đầy thú vị trong
một ngôi nhà bỏ trống.
Như ngày xưa, khi tôi ngồi cùng với anh trong một cỗ
xe đúng giờ đã định, tôi sờ soạng khẩu súng ngắn nằm
trong túi, tim đ ập liên hồi vì hồi hộp đón chờ
những sự kiện chưa lường trước được.
Holmes thì trầm ngâm, đăm chiêu suy nghĩ. Khi ánh
sáng của ngọn đèn đường hắt vào khuôn mặt khắc khổ
của anh, tôi thấy anh khẽ ngước đôi lông mày, còn
cặp môi mỏng thì mím chặt, chứng tỏ anh đang suy
nghĩ rất căng thẳng. Tôi không biết, chúng tôi đang
săn đuổi con thú ranh mãnh nào đây trong khu rừng
rậm của thế giới tội phạm tại Luân Đôn. Nhưng tất cả
dáng điệu của một người thợ săn đầy lão luyện như
báo cho tôi rằng, cuộc trinh thám này sẽ là cuộc
trinh thám nguy hiểm nhất, ác liệt nhất. Nụ cười mỉa
mai thường xuyên xuất hiện trên gương mặt đăm chiêu
của bạn tôi không hứa hẹn một đi ều gì tốt đẹp cho
con thú chúng tôi đang săn đuổi.
Tôi đinh ninh rằng, thế nào chúng tôi cũng ghé về
hẻm Baker, nhưng Holmes lại ra lệnh cho người xà ích
dừng xe ở góc phố Cavendish. Trong lúc bước xuống xe,
anh cẩn thận quan sát, nhìn soi mói vào từng ngóc
ngách; kiểm lại xem có cái đuôi nào bám sau không.
Chúng tôi bước vào một cái ngách trông r ất lạ.
Holmes luôn luôn làm cho tôi thán phục về sự hiểu
biết tường tận khá nhiều góc hẻm ở Luân Đôn. Anh ung
dung tự tin bước vào một góc tối đầy chuồng ngựa, đi
qua những cái sân hôi hám, nhớp nhúa; tôi không thể
tin sự tồn tại có mặt c ủa những thứ ấy. Cuối cùng
chúng tôi lọt vào một cái hẻm ch ật hẹp, có hai dãy
nhà cũ kỹ, tối tăm ở hai bên. Đường này d ẫn chúng
tôi ra phố Manchester, rồi đến phố Blandford. Holmes
nhanh nhẹn nhảy sang một lối hẹp khác, đi qua một
hộc cửa b ằng gỗ, lọt vào cái sân vắng vẻ. Anh dùng
chìa khóa mở cửa sau một ngôi nhà. Chúng tôi bước
vào, ngay lập tức anh khóa trái cửa lại.
Dù trời rất tối, nhưng tôi hiểu ngay là ngôi nhà này
không có người ở. Nền nhà không lót thảm, kêu lên
răng rác; lạo xạo dưới phân, tôi vô ý chạm phải
những bức tường, nhiều tờ giấy dán tường bị bong ra
treo trên đầu chúng tôi.
Những ngón tay gầy, lạnh lẽo của Holmes bóp chặt bàn
tay tôi, anh dẫn tôi theo một hành lang dài, cuối
cùng trước mắt chúng tôi hiện ra một cái vòm cửa sổ
nửa cong, nửa thẳng đ ứng kín đáo, nằm trên chỗ cửa
ra vào. Bỗng dưng Holmes quay về bên phải, và chúng
tôi lọt vào một căn phòng hình vuông rộng lớn nhưng
bị bỏ hoang; các góc, xó hoàn toàn tối om, nhưng ở
giữa phòng thì được lờ mờ ánh sáng ngọn đèn đường.
Cạnh cửa sổ không có một ngọn đèn nào, còn tấm kính
trên cửa sổ thì bị một lớp bụi dày bao phủ. Chúng
tôi nh ận ra nhau khá chật vật.
Holmes đặt tay lên vai tôi, và cúi sát môi vào tai
tôi.
-
Cậu có biết chúng ta đang ở đâu không? - Anh thầm
thì hỏi.
-
Dường như trong hẻm Baker, - Tôi vừa nhìn vào tấm
kính mờ đục vừa nói.
-
Đúng như vậy, chúng ta đang đứng ở nhà Kem đem, đối
diện với căn buồng trước kia của chúng mình.
-
Chúng mình đến đây làm gì?
-
Đến đây để nhìn hình dạng tuyệt vời của ngôi nhà kia.
Không biết có nên tiến sát vào cánh cửa sổ không?
Nhưng hãy thật th ận trọng, đừng để ai phát hiện ra
cậu. Cậu thử nhìn vào cửa sổ của buồng cũ chúng mình
đi, nơi đó đang mở ra những cuộc trinh thám đầy thú
vị. Cậu thử xem, tớ đã mất khả năng làm c ậu kinh
ngạc chưa, sau ba năm trời phiêu bạt?
Tôi nhẹ nhàng, cẩn tắc tiến về phía trước, nhìn vào
khung cửa sổ vô cùng thân thuộc... Bỗng nhiên tôi
thốt lên một tiếng kinh ngạc, bức rèm được buông
xuống, đèn sáng rực rỡ, có một người ngồi trên chiếc
ghế bành kê ở giữa phòng, hắt bóng rất rõ lên nền
sáng của cánh cửa sổ. Từ đầu, đến đôi vai rộng, cho
đến khuôn mặt xương xương, cái đầu hơi xoay nghiêng,
t ạo nên một dáng dấp mờ ảo, những bà cụ rất thích
được vẽ ki ểu ấy... Không còn gì nghi ngờ, đấy chính
là một bản sao hoàn hảo chính xác con người Sherlock
Holmes. Tôi kinh ngạc đến nỗi phải đưa tay lên sờ
vào người anh để khẳng định anh vẫn đ ứng bên cạnh
tôi.
Holmes cười không thành tiếng.
-
Thế nào? - Anh hỏi.
-
Chuyện này khó tin được! - Tôi thì thầm nói.
-
Dường như, năm tháng không cướp đi khả năng sáng tạo
c ủa mình, còn thói quen cũng không vì thế bị khô
mòn, - Anh nói.
Tôi cũng bắt gặp trong giọng nói anh một niềm vui
sướng, kiêu hãnh của nhà họa sĩ đang thưởng thức
công trình tuyệt tác c ủa mình.
-
Cậu thấy có thật giống mình không?
-
Tớ nghĩ rằng, đây chính là cậu đang ngồi. Vinh dự
này thuộc về ngài Meunier ở Grenoble. Ông ta đã tạc
tượng tớ trong vòng có vài ba ngày. Nó được làm bằng
sáp. Những phần còn lại tớ tự sắp đặt khi tớ quay về
hẻm Baker sáng sớm hôm nay.
-
Nhưng cậu làm thế nhằm mục đích gì?
-
Tớ có nguyên nhân chính đáng. Tớ muốn một số người
nào đó cứ đinh ninh là tớ đang ngồi ở nhà, trong khi
ấy, thực tế tớ lại ngồi ở một nơi khác.
-
Có nghĩa là cậu nghĩ rằng, có một bọn nào đó đang
rình mò căn hộ ư?
-
Tớ biết, có kẻ đang rình mò căn nhà.
-
Kẻ đó là ai?
-
Những kẻ thù của tớ. Cái băng đầy hấp dẫn mà tên thủ
lĩnh đã vĩnh viễn nằm chôn vùi dưới đáy thác nước
Reichenbach. C ậu biết đấy, chỉ có bọn nó mới biết
chính xác là tớ vẫn còn s ống. Chúng nó tin chắc, dù
sớm hay muộn rồi tớ cũng quay về căn phòng cũ của
mình. Tụi nó chưa chịu từ bỏ ý định theo dõi rình
rập để hại tớ. Sáng nay chúng đã thấy tớ quay về nhà.
-
Làm sao cậu đoán được điều đó?
-
Trong lúc nhìn qua cửa sổ, tớ nhận ra một thằng thám
thính c ủa chúng. Tên của hắn là Parker, chuyên ăn
cướp, giết người, đồng thời còn là một nhà tổ chức
thiên tài. Tớ chú ý đến thằng này ít thôi. Một thằng
khác làm cho tớ chú ý nhiều hơn, đáng gờm hơn là
thằng núp sau lưng tên Parker. Đó là kẻ thân cận
nhất của tay Moriarty. Chính hắn đã dùng đá ném tới
tấp vào t ớ từ ngọn núi đá. Hắn là một tên tội phạm
ranh ma, xảo quyệt nhất, nguy hiểm nhất hiện nay ở
Luân Đôn. Chính hắn đêm nay sẽ đi săn tớ, và hắn đâu
ngờ rằng, chúng ta lại săn hắn.
Kế hoạch của Holmes dần dần làm cho tôi sáng tỏ. Từ
chỗ ẩn nấp thuận tiện này, chúng tôi có khả năng
theo dõi tất cả nh ững ai có ý đồ theo dõi chúng tôi.
Dáng dấp bóng người thấp thoáng bên cửa sổ là một
miếng mồi, còn chúng tôi là những tay thợ săn.
Vai kề vai, chúng tôi đứng lặng im trong bóng tối
chăm chú ng ắm nhìn những bóng người lượn qua lượn
lại. Đêm ấy, thời ti ết rất xấu, trời trở lạnh tê
tái, gió thổi dọc theo dãy phố một cách dữ dội, gay
gắt. Người đi lại ngoài đường khá đông, hầu như ai
bước đi cũng rất vội, họ đều cố kéo cơm áo hoặc mũ
che kín mũi cho đỡ lạnh.
Tôi có cảm giác một người nào đó cứ đi qua đi lại
sát ngôi nhà, đặc biệt có hai người làm cho tôi nghi
ngờ hơn cả. Họ làm như thể tránh gió, nên bước vào
một cánh cổng cách chúng tôi không xa. Tôi định bụng
sẽ báo cho Holmes biết, nhưng anh trả lời tôi với
một giọng bực bội rồi tiếp tục theo dõi động tĩnh
ngoài đường. Thỉnh thoảng anh co chân cho đỡ mỏi
hoặc lấy ngón tay gõ gõ vào bức tường. Tôi thấy anh
có vẻ không vui, hình như sự việc xảy ra không hoàn
toàn đúng như kế hoạch. Trời chuyển về khuya, đường
phố tĩnh mịch vắng vẻ Holmes đi lại trong phòng, anh
bồn chồn lo lắng, hồi hộp. Vừa máy miệng định nói
một điều gì nhưng tôi lại một lần nữa sửng sốt, kinh
ngạc.
-
Bức tượng cử động kìa! - Tôi thốt lên.
Rất rõ, bóng hình kia quay về phía chúng tôi, không
phải bên hông, mà là quay hẳn lưng lại.
Năm tháng không làm cho tính cách của Holmes thay
đổi chút nào, anh vẫn là người điềm đạm, nhẫn nại,
luôn thể hiện trí thông minh, đầu óc suy luận sắc
sảo, nhìn nhận rất tinh tế.
-
Phải làm như thật, - Anh đáp. - chẳng lẽ tớ lại là
một kẻ ngu ngốc không có bộ não hay sao? Đặt trong
phòng một hình nộm bất động không xua được ruồi thì
quả là rất lộ liễu, phải chăng nhờ nó mà có thể đánh
lừa được những kẻ ranh ma nhất Châu Âu ư? Chúng mình
thu lu trong xó xỉnh này đã hai giờ đ ồng hồ, trong
lúc đó bà Hudson đã thay đổi vị trí bức tượng tám
lần. Cứ mười lăm phút một lần, với điều kiện là bà
sẽ không để in bóng mình cho người ngoài trông thấy.
Bỗng nhiên anh im lặng, nín thở. Trong cảnh nhá nhem,
tôi trông thấy anh rướn cổ lên trong tư thế chờ đợi
rất căng th ẳng.
Đường phố đã hoàn toàn vắng ngắt. Có lẽ, hai tên
đứng nấp trong hẻm vẫn còn. Nhưng tôi không tài nào
nhìn thấy chúng. Xung quanh tôi một màn đen và sự im
ắng bao trùm.
Trong bóng đêm, màu vàng của cánh cửa sổ được chiếu
sáng rực cùng với bóng của hình người ngồi giữa
phòng, càng nổi b ật rõ nét. Không gian im ắng đáng
sợ, tôi nghe thấy iếng thở khò khè của Sherlock,
chắc anh rất hồi hộp cho kế hoạch của mình. Bỗng
nhiên anh ấn sâu tôi vào góc căn phòng, chỗ tối nh
ất, và lấy tay bịt miệng tôi lại, bằng cách này anh
muốn nhủ tôi phải tuyệt đối im lặng. Lúc này, tôi
thấy những ngón tay của anh run run.
Chưa bao giờ tôi được chứng kiến anh bị kích động,
căng th ẳng đến tột độ như vậy. Đường phố vẫn tạnh
ngắt, yên ả không có gì xẩy ra hết. Bỗng nhiên, tôi
nghe thấy một âm thanh khe khẽ, rì rầm vang đến tai
tôi, âm thanh mà đôi tai cực nhậy của Holmes đã nghe
thấy trước. Tiếng động không phải phát ra từ hẻm
Baker, mà chính trong ngôi nhà chúng tôi đang nấp.
Cửa ra vào được mở ra, rồi đóng lại. Có tiếng bước
chân rón rén vang lên khe khẽ ngoài hành lang. Người
đi cố giữ cho bước chân khỏi kêu to, nhưng trong căn
nhà hoang này nó vẫn dội lên những âm thanh khá to.
Holmes đứng dựa sát vào tường, tôi cũng làm theo và
nắm ch ặt khẩu súng ngắn, căng mắt nhìn vào bóng tối.
Tôi nhận ra lờ mờ bóng dáng một người đàn ông, bóng
đen hơi sẫm hơn so v ới tấm khung hình chữ nhật của
cánh cửa đã mở. Hắn đứng im ở đó chừng một phút, rồi
nhảy xuống và rón rén tiến về phía trước. Mọi cử chỉ
hành động của hắn đều chứa đựng một mối đe dọa. Thân
hình dữ tợn của hắn đứng cách chúng tôi có ba bước.
Tôi lên gân cốt, chuẩn bị đối phó với cuộc tấn công.
Nhưng h ắn không hề biết có chúng tôi ở đây.
Hắn đi ngang qua chỗ chúng tôi đứng, suýt nữa thì
chạm phải nhau. Hắn rón rén tiến đến gần cửa sổ rất
thận trọng không hề một tiếng động, hắn nhấc cánh
cửa lên cao nửa foot.
Khi hắn trèo lên để mở chốt cửa, ánh sáng đèn đường
hắt qua tấm kính bẩn thỉu soi rõ bộ mặt hắn, một bộ
mặt dễ làm cho chúng ta kích động cao độ. Cặp mắt
cháy lên một cách man r ợ, nét mặt biến dạng kinh
khủng.
Hắn không còn trẻ trung gì nữa, có một chiếc mũi
quặp như m ỏ diều hâu, trán hói khá cao, bộ râu bạc
trắng rất dài. Mũ của h ắn được kéo xuống tận gáy,
chiếc áo bành tô hở cúc, để hở ra một khoảng trắng
trước ngực - chiếc yếm hồ trắng. Bộ mặt rám nắng,
đen đủi hằn đầy những vết nhăn sâu hoắm. Trong tay
hắn cầm một vật đại loại như cây ba-toong, nhưng khi
hắn đặt xuống nền nhà, nó phát ra một tiếng kêu "keng"
của kim khí. Hắn lôi từ trong túi ra một vật gì đó
khá lớn: hắn loay hoay với đồ ấy chừng vài phút; cho
đến khi một âm thanh kim khí phát ra, có lẽ, hắn kéo
một chiếc lò xo hay cái then chốt.
Ngồi bằng đầu gối, hắn tiến về phía trước và với tất
cả sức n ặng của bản thân, hắn đè lên một đòn bẫy.
Chúng tôi nghe th ấy một âm thanh dài dữ dội, có
phần kêu to hơn lúc trước. H ắn đứng thẳng người
lên, tôi trông thấy trong tay hắn không ph ải cái gì
xa lạ mà là khẩu súng săn, có cái báng kỳ lạ, xấu
xí. Hắn mở khóa, kéo cò bấm và đặt một vật gì vào
bên trong xong cài chốt lại. Hắn qùy xuống, đặt đầu
nòng súng lên bệ c ửa sổ, bộ râu dài của hắn chấm
sát tận nòng, cặp mắt hắn long lanh dữ tợn. Hắn đặt
súng tỳ vào vai và thở ra khoan khoái : tấm bia đang
đứng trước mặt hắn - tấm bia kỳ lạ, bóng dáng đen
đen soi rõ trên nền sáng. Hắn lưỡng lự một lát sau
đó đặt tay lên cò súng, một tiếng "vù" là lạ phát
ra, tiếp theo là tiếng kính vỡ loảng xoảng.
Ngay lúc đó Holmes bỗng nhảy bổ ra như một con hổ,
anh ch ộp ngay lưng kẻ vừa bắn và quật hắn ta úp mặt
xuống sàn.
Nhưng một giây sau, kẻ bị quật ngã đã đứng dậy được,
với m ột sức mạnh không ngờ hắn tóm lấy cổ Holmes.
Tức thì, tôi dùng báng súng nện mạnh vào đầu kẻ hành
hung, hắn ngã xu ống, tôi nằm đè lên. Lúc đó Holmes
thổi còi. Ngoài đường một tốp người đã chạy tới, có
hai cảnh sát quân phục đầy đủ, cùng một vị thám tử,
từ cổng chính bước vào phòng.
-
Có phải Lestrade đó không? - Holmes hỏi.
-
Tôi đây, thưa ngài Holmes. Tôi định tự mình sẽ giải
quyết vi ệc này. Rất vui mừng lại được gặp ngài ở
Luân Đôn.
-
Sự giúp đỡ nhỏ mọn, không đáng kể của chúng tôi chắc
không cản trở các ngài? Trong một năm có ba vụ án
mạng không được phát hiện, cũng hơi nhiều đấy
Lestrade ạ. Nhưng câu chuyện bí mật ở Molesey, ngài
tiến hành không đến nỗi nào... nghĩa là ngài giải
quyết vụ ấy không đến nỗi tồi.
Chúng tôi đứng lên. Còn tên hung thủ thì thở hổn hển
trong cánh tay của hai viên cảnh sát lực lưỡng.
Một đám đông những kẻ rỗi việc bắt đầu tụ tập ngoài
đường. Holmes tiến đến bên cửa sổ, đóng lại.
Lestrade châm hai ngọn nến vừa mang tới, còn các vị
cảnh sát thì bật công tắc đèn pin bỏ túi. Tôi có dịp
quan sát kẻ sát nhân kỹ càng hơn.
Hắn có bộ mặt rất đàn ông, trông rất đáng ghét. Vầng
trán như một triết gia, cái cằm như của một người
thích nói những lời ngọt ngào, êm dịu. Những cái đó,
chứng tỏ con người hắn cũng có một khả năng làm
những điều tốt lành, cũng như làm những điều ác độc.
Nhưng cặp mắt dữ dằn màu ánh thép, bộ lông mi rậm
cái nhìn trâng tráo, chiếc mũi quặp ác thú và nh ững
nếp hằn sâu trên trán đã tự tố cáo lên bản chất của
hắn, những dấu hiệu báo trước cho xã hội biết những
dã tâm nguy hiểm. Hắn không thèm nhìn lên bất cứ
người nào trong số chúng tôi. Cái nhìn của hắn như
cắm chặt vào khuôn mặt của Sherlock Holmes, hắn nhìn
với một sự kinh ngạc và hằn học.
-
Con quỷ! - Hắn lẩm bẩm. - Một con quỷ ranh ma, xảo
quyệt!
-
Đại tá, - Holmes nói, và sửa lại cổ áo bị nhàu, -
Những người bạn chí cốt lại gặp nhau, như lời người
xưa thường nói. Tôi chưa có dịp gặp lại ngài sau lần
ngài đã theo dõi tôi một cách trắng trợn. Ngài hẳn
còn nhớ, khi tôi nằm ở khe hở của núi đá tại thác
nước Reichenbach.
Ngài đại tá có lẽ đang bị thôi miên, hắn không thể
nào bứt cái nhìn ra khỏi Sherlock Holmes.
-
Con quỷ, con quỷ có thật! - Hắn cứ lặp đi, lặp lại
câu nói đó.
-
Tôi chưa kịp giới thiệu cho các vị - Holmes lên
tiếng. - Các vị biết không, đây là ngài đại tá
Sebastian Moran, một cựu sĩ quan trong đội quân của
hoàng gia đóng ở Ấn Độ, và là một th ợ săn thú dữ
tài ba, có một thời nổi tiếng oanh liệt ở những vùng
thuộc địa Đông phương. Tôi nghĩ, tôi không nhầm ngài
đại tá ạ, có phải về số hổ báo săn bắn được, hiện
nay ngài đang gi ữ kỷ lục phải không?
Tên tù binh thật vất vả lắm mới kìm được cơn phẫn
nộ, hắn ti ếp tục nín thinh. Chính hắn cũng đã giống
một con hổ rồi, cặp mắt của hắn long lên dữ tợn, ria
mép cũng xù lên.
-
Tôi rất ngạc nhiên vì sự đánh lừa quá ư đơn giản đã
đưa một thợ săn dày dạn kinh nghiệm vào tròng, -
Holmes tiếp tục, - Đ ối với ngài điều này đâu còn là
mới mẻ. Chẳng lẽ, chưa bao gi ờ ngài buộc một con dê
dưới một gốc cây, còn ngài thì leo lên cây rậm rạp
với khẩu súng săn hoặc carbin trong tay, để chờ con
cọp dẫn xác đến con mồi hay sao? Ngôi nhà bỏ trống
này là cái cây của tôi, còn ngài là con hổ của tôi.
Tôi nghĩ rằng, đôi khi ngài cũng phải dùng những
phát đạn dự trữ trong trường h ợp, cùng một lúc có
nhiều con hổ xuất hiện, hoặc hãn hữu cũng có đôi lúc
ngài bắn trượt chứ. Mấy vị này, - Anh nói và ch ỉ
vào chúng tôi - là những phát súng dự phòng của tôi.
Sự so sánh của tôi chính xác đấy chứ?
Bất thình lình, đại tá Moran tức tối chồm lên phía
trước, nhưng hai người cảnh sát đã kịp giữ hắn lại.
Bộ mật của hắn thể hiện nỗi hằn học, nhìn vào đó
chúng tôi thấy kinh khủng, gớm ghi ếc.
-
Thú thật, ngài đã mang đến cho tôi một món quà nho
nhỏ, - Holmes tiếp tục công kích. - Tôi không ngờ,
chính ngài cũng muốn sử dụng ngôi nhà bỏ trống này,
quả thật thuận lợi. Tôi nghĩ thế nào ngài cũng hành
động từ ngoài phố, ở đấy có anh bạn Lestrade của tôi
cùng những thủ hạ của anh ta đã đợi chờ ngài sẵn.
Trừ chi tiết ấy ra, còn mọi việc đều tiến triển đúng
như tôi dự định.
Đại tá Moran quay sang phía Lestrade.
-
Không kể những cái ấy, ngài có đủ chứng cớ, cơ sở để
bắt tôi, hay là ngài không có đủ cơ sở? - Hắn ta
nói, - Tôi không th ể nào chịu đựng nổi những lời lẽ
nhạo báng của con người kia. Nếu tôi ở trong tay
luật pháp, thì cứ để pháp luật giải quy ết.
-
Điều này công bằng thôi, - Lestrade nhận xét. -
trước khi chúng tôi ra về, ngài còn muốn nói điều gì
nữa không, thưa ngài Holmes.
Holmes nhặt khẩu súng hơi đồ sộ lên, và quan sát cơ
cấu của khẩu súng.
-
Khẩu súng có một không hai này mới tuyệt làm sao -
Anh th ốt lên. - Bắn không nghe tiếng kêu, nhưng có
sức công phá và hủy diệt rất lớn. Tôi biết một nhà
cơ khí người Đức, tên là Von Herder. Ông ta đã thiết
kế khẩu súng này theo đơn đặt hàng c ủa ngài giáo sư
Moriarty. Từ lâu tôi đã nghe tiếng tăm khẩu súng,
nhưng chưa bao giờ có vinh dự được cầm nó trên tay.
Tôi đặc biệt lưu ý ngài về khẩu súng này, và cả cách
nạp đạn cho nó nữa, thưa ngài Lestrade.
-
Ngài không phải bận tâm, thưa ngài Holmes, chúng ta
còn d ịp quay lại vấn đề này. - Khi tất cả mọi người
tiến sát đến cánh cửa ra vào, Lestrade đáp - Đó là
tất cả những gì ngài muốn nói?
-
Vâng, tất cả, nhưng ngài định khép tên này vào tội
gì?
-
Còn tội gì nữa, thưa ngài? Chẳng hạn như tội mưu sát
ngài Sherlock Holmes.
-
Ôi! Không phải như vậy đâu! Tôi không muốn dính líu
vào vụ này. Chỉ có ngài mới được lãnh trọng trách
làm công việc bắt bớ tuyệt vời này, ngài đã tốn công
sức để tiến hành. Xin chúc mừng ngài Lestrade! Với
sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa khả năng hiếm có và
lòng quả cảm, đầy mưu lược, cuối cùng ngài đã bắt
được kẻ kia.
-
Người kia là ai vậy? Hắn ta là ai, thưa ngài Holmes.
-
Người mà, cả ngành cảnh sát đã hoài công tìm kiếm,
truy nã. Đại tá Sebastian Moran, kẻ mà vào đêm 30
tháng trước đã bắn chết ngài Ronald Adair bằng khẩu
súng hơi, bắn qua cửa sổ t ầng hai ngôi nhà 427, phố
Park Lane. Chúng ta cần lời buộc t ội như vậy....
Còn bây giờ, Watson, nếu cậu không sợ gió lùa từ
cánh cửa sổ bị vỡ kính, thì chúng ta sẽ cùng nhau
ngồi trong phòng tớ, và hút với nhau điếu thuốc. Tớ
hy vọng sẽ làm cho cậu khuây khỏa phần nào.
Sự quan tâm thường xuyên của anh Mycroft Holmes và
sự chăm sóc tận tụy của bà Hudson, căn hộ của chúng
tôi vẫn như xưa, không hề có gì thay đổi. Thú thật,
khi bước vào, tôi l ấy làm ngạc nhiên vì sự tươm tất
hiếm có, mọi thứ thân thuộc quen biết đều nằm ở vị
trí cũ. Ớ góc dành riêng cho những thí nghiệm hóa
học, một chiếc tủ bằng gỗ thông vẫn như xưa, vẫn
những vết ố do a-xít mạnh. Trên giá những chồng sách
tra c ứu, những mẩu tin cắt từ các tờ báo vẫn được
sắp xếp ngay hàng thẳng lối. Ôi, tôi chỉ muốn ném
hết những thứ chết tiệt kia vào lửa cho rảnh! Khi
tôi nhìn hết một lượt, thì những bản biểu đồ, hộp
đựng đàn viôlông, chiếc hộp Ba Tư đựng thuốc lá lại
hiện lên trước mắt tôi. Hai người có mặt trong
phòng. Một là bà Hudson chạy vồn vã đón mừng chúng
tôi với nụ cười lấp láy trên môi. Người thứ hai,
người mặc đồ màu cũ kỹ, đã đóng một vai rất quan
trọng trong những sự kiện đêm hôm qua. Đó là bức
tượng bằng sáp của bạn tôi, đã được tô màu, được tạc
thật khéo léo do một bàn tay điêu luyện nhào nặn,
trông giống như thật.
Bức tượng được đặt trên một chiếc ghế đẩu không cao,
được khoác chiếc áo bành tô cũ của Sherlock Holmes
trông rõ khéo, từ ngoài đường nhìn vào thì khó ai
tưởng đó là tượng.
-
Bà đã thực hiện tất cả chỉ dẫn của tôi một cách
tuyệt vời. - Holmes nói.
-
Tôi phải bò bằng đầu gối để tiến sát bức tượng, như
ngài chỉ bảo thưa ngài.
-
Tốt, bà đã làm việc đó không thể chê vào đâu được.
Bà có th ấy viên đạn đâm
vào đâu không?
-
Có thưa ngài. Tôi sợ viên đạn làm hỏng mất bức tượng
đẹp đ ẽ của ngài. Nó xuyên qua đầu và cắm vào tường.
Tôi nhặt nó lên từ tấm thảm. Nó đây.
Holmes chìa cho tôi xem đầu đạn.
-
Đầu đạn súng lục mềm mại, Watson, cậu hãy nhìn xem.
-
Thật là cự phách! Có ai dám nghĩ viên đạn này lại
được bắn ra từ khẩu súng hơi? Rất tuyệt, bà Hudson,
xin cảm ơn bà vì s ự giúp đỡ.... Còn bây giờ,
Watson, cậu hãy ngồi vào vị trí cũ c ủa mình như
thuở nào. Tớ muốn tâm sự với cậu đôi điều.
Anh cởi chiếc áo khoác ra, rồi lấy chiếc áo choàng
trên bức tượng khoác vào. Trước mặt tôi lại xuất
hiện một Sherlock Holmes ngày xưa.
-
Thần kinh của người thợ săn già vẫn còn vững, cặp
mắt vẫn còn tinh. - Anh nói và cười, vừa nhìn cái sọ
của bức tượng b ằng sáp bị bắn thủng.- Bắn trúng
chính giữa gáy và làm chảy não. Đúng là một tay
thiện xạ của rừng nhiệt đới ở Ấn Độ. Tớ nghĩ rằng, ở
Luân Đôn này địch thủ của hắn không phải là nhi ều.
Trước kia cậu có bao giờ nghe tên hắn hay chưa?
-
Không, tớ chưa từng nghe.
-
Ừ nhỉ, thế mà tớ quên! Cách đây không lâu, cậu đã
thú nhận, thậm chí cậu còn chưa nghe đến tên giáo sư
Moriarty, đó là m ột bộ óc của thế kỷ chúng ta. May
quá, cậu lấy giúp cặp đựng tài liệu theo dõi tiều
sử...
Sau khi ngồi lại ngay ngắn, thả người thoải mái
trong chiếc gh ế bành và khoan khoái thở ra từng đụn
khói thuốc, Holmes lơ đễnh lật từng trang giấy.
-
Vần chữ "M", tớ có một bộ sưu tầm khá hoàn chỉnh, -
Anh nói. - Chỉ một cái tên Moriarty, cũng đủ làm cho
vần "M" trở nên nổi tiếng. Còn cái tên Morgan là một
tên ghê tởm. Tên Merridew, có một trí nhớ khó ai
sánh kịp. Tên Mathews - chính là tên làm gãy chiếc
răng nanh bên trái của tớ ở phòng đợi nhà ga
Treringkrôx. Còn đây là anh bạn của chúng mình ngày
hôm nay.
Anh đưa cho tôi tập tài liệu, tôi đọc:
"Moran Sebastian, đại tá nghỉ hưu. Từng phục vụ
trong trung đoàn công biệt số một ở Bangalore. Sinh
năm 1840 tại Luân Đôn. Con trai của ngài Augutus
Moran - người được thưởng huân chương Banhi, một
thám tử cũ của Anh ở Persia, Sebastian từng tốt
nghiệp trường trung học Itônx và đại học t ổng hợp
Oxford. Từng làm liên lạc cho các hội, tập đoàn
Jowaki; Afghan Charasiab, Sherpur và Cabul. Là tác
giả của các cuốn sách "Cuộc đi săn mãnh thú ở miền
Tây Himalayas" (1881); và "Ba tháng sống trong rừng
nhiệt đới" (1884). Địa chỉ Phố Kônđuit. Tham gia các
câu lạc bộ Anh - Ấn: Tankerville, câu lạc bộ chơi
bài Bagatelle".
Ngoài lề được ghi bằng nét chữ của Holmes:
"Một tên nguy hiểm nhất của Luân Đôn, đứng sau
Monarti".
-
Thật kỳ lạ! - Tôi lên tiếng, và đưa trả Holmes cặp
tài liệu. - Dường như cuộc đời của hắn là bước đường
của một người lính trung thành.
-
Cậu nói đúng. - Holmes đáp.
-
Trước kia hắn không hề làm việc gì xấu xa. Hắn là
con người có bộ thần kinh bằng thép, ở Ấn Độ đến bây
giờ vẫn lưu truyền một huyền thoại kể rằng:
Anh ta đã bò trong lòng một con sông cạn, đã cứu
thoát một người khỏi những móng vuốt của một con hổ
bị thương. Có nh ững cây gỗ, lúc đầu mọc, phát triển
bình thường, rồi đến một đ ộ cao xác định nào đó,
bỗng nhiên phát hiện trong quá trình phát triển của
mình một sự biến đổi kỳ quặc so với mức bình thường.
Đối với con người cũng xảy ra điều tương tự. Theo
thuyết của tớ, mỗi cá nhân trong quá trình phát
triển, đều lặp l ại lịch sử phát triển của tất cả tổ
tiên. Tớ cho rằng, mỗi một bi ến động bất ngờ về
phía lương thiện hay độc ác đều phụ thuộc vào điều
kiện khách quan tác động rất mạnh; muốn biết được
quá khứ của một người, cần phải lục xem trong gia
phả người ấy; và suy luận rộng ra, tiểu sử của một
con người, đó như là một mẩu nhỏ trong tiểu phẩm cả
tiểu sử của toàn bộ gia đình.
-
Thôi được, nhưng tớ thấy cái thuyết lý của cậu hơi
viễn vông.
-
Tớ sẽ chấm dứt câu chuyện. Có những nguyên nhân này,
ho ặc nguyên nhân khác, đã đẩy đại tá Moran đi theo
con đường ngu xuẩn. Khi còn ở Ấn Độ có một kẻ đê
tiện đã dựng lên câu chuyện nào đó gây căng thẳng
cho ông ta, nhằm chống ông ta một cách kịch liệt,
đến nỗi ông ta không thể nào ở lại được n ữa.
Ông ta xin về hưu, trở lại đất Luân Đôn, và tại đây
ông ta đã bước vào con đường tội lỗi. Giáo sư
Moriarty đã phát hiện ra ông ta, trong một thời gian
dài ông ta là cánh tay phải của Moriarty.
Thằng giáo sư này cung cấp tiền nong cho ngài đại tá
tiêu xài một cách phóng khoáng. Nhưng rất hãn hữu
mới cần tới sự giúp đỡ của hắn. Chỉ trong hai hoặc
ba trường hợp khó khăn mà những tên tội phạm bình
thường không thể đảm đương nổi. Có lẽ, cậu còn nhớ
cái chết kỳ quặc của bà Stewart ở Lauder năm 1887?
Không nhớ à? Tớ chắc chắn chuyện này không th ể
không có tay Moran nhúng vào, mặc dù không có chứng
cớ để buộc tội hắn ta. Ngài đại tá có nghệ thuật
giấu mình một cách tài tình.
Khi cả băng của Moriarty bị tóm hết, thì chỉ riêng
hắn là không làm sao lôi cổ ra tòa được.
Watson, cậu còn nhớ buổi tối, khi tớ đến chỗ cậu, tớ
phải kéo rèm cẩn thận không? Tớ sợ phát súng bắn ra
từ khẩu súng hơi đặc biệt. Lúc bấy giờ cậu cho tớ là
kỳ quặc, nhưng tớ biết mình cần phải làm gì. Tớ đã
nghe nói về khẩu súng đặc biệt kia rồi. Hơn nữa, tớ
biết khẩu súng đang nằm trong tay một nhà thiện xạ.
Khi tớ với cậu đi sang Thụy Điển, Moran và Moriarty
đã đuổi theo chúng ta, và chính hắn đã làm cho tớ
bàng hoàng trong mấy phút ở khe lở của thác
Reichenbach.
Cậu biết không, khi còn ở bên Pháp tớ vẫn thường
xuyên theo dõi tin tức trên báo chí Anh, tớ hy vọng
sẽ tìm ra đầu mối nào đó để bắt hắn ta phải ngồi vào
lồng sắt. Khi hắn còn nhởn nhơ dạo chơi trên đất
Luân Đôn thì tớ chưa thể tính chuyện về được. Cả
ngày lẫn đêm, mối đe doa. kia cứ ám ảnh tớ, dứt
khoát hắn sẽ tìm mọi cách để giết tớ. Tớ phải làm
gì? Chẳng l ẽ gặp trực tiếp và bắn chết hắn? Tớ
không thể làm như vậy được. Vì lúc ấy, chính tớ sẽ
bị ngồi vào ghế bị cáo. Trực tiếp đ ến báo với tòa?
Không ích lợi gì, vì tòa sẽ không đủ chứng cớ để xét
xử, chẳng lẽ xử hắn bằng những vấn đề nghi vấn? Tớ b
ất lực hoàn toàn, không có cách nào để giải thoát
được. Tớ đã trải qua một quá trình kiên trì không
mệt mỏi theo dõi hắn bằng tin tức các vụ án, bởi tớ
tin như đinh đóng cột rằng dù sớm hay muộn tớ cũng
phanh phui ra hắn.
Vụ ám sát đầy bí ẩn anh chàng Ronald Adair đã dẫn
đến sự chín muồi của những ngày kiên trì mong đợi,
giờ khởi hành đã đến. Không biết tớ có dám khẳng
định Moran đã bắn chết chàng Ronalđ hay không? Hắn
ta đã cùng chơi bài với chàng thanh niên, và bám gót
anh ta từ câu lạc bộ về nhà, sau đó bắn chết chàng
trai qua cửa sổ đã mở. Đúng, không còn nghi ngờ gì
nữa. Chỉ một đầu đạn, cũng đủ chứng cớ để nghi.
Hết |