Cao Lương Đỏ đã được đạo diễn tài ba
Trương Nghệ Mưu dựng thành phim mang cùng tên do ngôi sao Củng
Lợi thủ vai chính. Bộ phim đã được giải thưởng tại liên hoan
phim Cannes.
° ° °
Theo
lịch cũ, mồng chín tháng tám năm 1939, cha tôi, người mang dòng
máu thổ phỉ vừa hơn mười bốn tuổi, ông gia nhập vào đội quân của
tư lệnh Dư Chiêm Ngao, mà sau này trở thành anh hùng truyền kỳ
danh tiếng khắp trong thiên hạ, đi phục kích đoàn xe ô tô Nhật
Bản trên đoạn đường Giao Bình. Bà nội tôi tiễn họ tới đầu thôn,
bỗng Dư tư lệnh hô: “Nghiêm!”, nội liền đứng nghiêm và dặn dò
cha tôi: “Đậu Quan, hãy nghe lời cha nuôi nghe con!”. Ông im
lặng cúi đầu không một lời đáp lại.
Đoàn người đi trong đêm mù sương, bí mật hành quân trên những
thửa ruộng cao lương đỏ của quê hương Cao Mật. Ôi Cao Mật, nơi
tôi yêu nhất mà cũng là nơi tôi ghét nhất, mãi sau này lớn lên
học hành giác ngộ, tôi mới hiểu ra, không nơi nào trên trái đất
lại đẹp nhất và xấu nhất như Cao Mật, cực kỳ siêu thoát mà cũng
cực kỳ thế tục, sạch sẽ nhất và bẩn thỉu nhất, anh hùng hảo hán
nhất và đầu trộm đuôi cướp nhất, nơi biết uống rượu nhất và cũng
là nơi biết yêu đương nhất. Cao Mật với bạt ngàn cao lương đỏ,
huy hoàng, dào dạt, uyển chuyển và dậy sóng biết bao.
Năm nội tôi tròn 16 tuổi, cô thiếu nữ vừa xuân thì, phát tiết
dung nhan, thắm màu hoa nguyệt, buồn rười rượi bước lên kiệu hoa,
dập dềnh trên biển máu cao lương, đỏ như không thể nào đỏ hơn
nữa. Cố tôi gả nội cho chủ nợ họ Đơn, về làm vợ thằng con trai
độc tự Biển Lang. Tuổi xuân rực rỡ của nội khiến bà khát khao
được ngả vào lòng một chàng trai vạm vỡ đàn ông, giải khuây bao
nỗi trầm uất, cô tịch trong chiếc kiệu hoa ô uế này. Nội không
chịu nổi cái cảnh tù túng giữa bốn bức màn vải đỏ; với bàn chân
nhỏ xíu nhọn tựa búp măng, bà tách mảnh rèm kiệu thành khe hở và
trộm ngó ra bên ngoài, hai đòn cáng kiệu bóng loáng đè lên bốn
tấm vai bạnh của những người phu kiệu, mà nơi họ bốc ra mùi mồ
hôi chua loét, mùi mồ hôi đàn ông quyến rũ nội, khiến từng vòng,
từng vòng sóng xuân lăn tăn, lăn tăn dậy lên nơi lòng bà, rạo
rực lạ thường. Một trong bốn phu kiệu hôm đó sau này là ông nội
của tôi, người có tên tư lệnh Dư Chiêm Ngao lẫy lừng.
Đám phu kiệu đưa nội tôi ra tới đường cái quan, bao la một cảnh
đồng rộng sông dài, những thanh niên lực lưỡng bắt đầu nghĩ cách
trêu chọc cô dâu, họ chạy nhanh làm cho nội ngồi trên kiệu lắc
lư, điên đảo, nôn hết nước xanh nước vàng, bảo họ đi chậm lại
thì cả bốn người đều thưa rằng, phải vượt qua hang Cóc trước lúc
trời tối kẻo có cướp. Nội tôi khóc thút thít không phải vì bốn
anh phu kiệu chơi khăm bà, mà vì nghĩ tới người chồng sẽ động
phòng hoa chúc đêm nay - Đơn Biển Lang, một bệnh nhân kinh phong,
con trai độc nhất của Đơn Đình Tú, tay bá hộ giàu lên nhờ nấu
rượu cao lương, nhẽ nào bà lại phải trao thân cho hắn, nội tôi
càng nghĩ càng khóc thành tiếng khiến phu kiệu Dư Chiêm Ngao
động lòng trắc ẩn và mơ hồ thấy cả một vầng sáng ngày mai. Đoàn
người vừa đến hang Cóc thì quả nhiên có cướp, một tay thổ phỉ
cao to, lưng mang bao vải đỏ cồm cộm những tiền là tiền, hét lớn:
“Mãi lộ!”. Đám phu kiệu vâng lời có bao nhiêu dốc hết để tìm
cách thoát nạn. Nhưng tên cướp vén màn vải gọi nội tôi bước ra
và hạ lệnh: “Đi theo tao xuống ruộng cao lương kia!”. Nội thản
nhiên, cương nghị và liếc nhìn phu kiệu Dư Chiêm Ngao. Hiểu ý
người đẹp, họ Dư bất thần song phi đá lăn tay thổ phỉ, đoàn
người xô tới bóp cổ hắn chết tươi. Dư Chiêm Ngao dìu nội lên
kiệu, họ cười với nhau thật huy hoàng và cao quý, bà xé toang
màn kiệu, tự do hít thở không khí, tự do ngắm tấm lưng trần lực
lưỡng đàn ông của Dư Chiêm Ngao, người mà cháu chắt chúng tôi
đang ngày đêm hương khói phụng thờ...
Cha tôi như một liên lạc viên dẫn đoàn quân luồn giữa ruộng cao
lương, tay ông luôn nắm chặt khẩu súng lục to quá cỡ đeo lủng
lẳng bên hông. Họ đến nơi phục kích thì cũng vừa lúc đàng đông
ửng hồng, nhưng trên con lộ vẫn chưa thấy một chiếc xe nào của
giặc cả. Dư tư lệnh bảo mọi người hãy tạm nghỉ trong ruộng cao
lương và nói với cha tôi: “Đậu Quan, quay về nhờ mẹ làm cho ít
bánh, khoảng trưa thì đem ra và dặn mẹ con cùng đi nữa nghe”.
Cha tôi chạy một mạch tới nhà, ông ôm lấy nội, người con gái
hoàng hoa thời ấy nay đã là thiếu phụ phong sương. “Mẹ cho nhiều
trứng vào bánh nhe”. “Ừ, bọn giặc vẫn chưa đến à?”. “Chưa mẹ ạ,
Dư tư lệnh dặn mẹ gánh bánh ra cho ông và binh lính đó”. Xong
nhiệm vụ, cha tôi chạy như bay về bên tư lệnh báo cáo: “Trưa nay
nhất định có bánh”. Nói chưa dứt lời thì cha tôi phát hiện từ xa
bốn con bọ hung sắt bò trên đường lộ, ông kêu lên: “Tư lệnh xem
kìa, xe giặc”.
Nội “nhận lệnh” và liền hô hào con cái nhào bột làm bánh. Đúng
giờ hẹn bà vận chiếc áo màu đỏ thẫm, trên vai kĩu kịt một gánh
những cái bánh còn nóng hổi, thoăn thoắt hướng về cầu đá, nơi tư
lệnh đang chờ. Từ ngày đi lấy chồng, nội tôi vẫn giữ được vẻ yêu
kiều của thiếu nữ, công việc nặng nhọc chẳng mấy đến tay cho nên
gánh bánh khao quân đã hằn lên vai nội một vệt bầm khá sâu, màu
tím đỏ, ấy là biểu tượng cho hành vi anh dũng kháng Nhật mà nội
mang theo khi từ giã cõi đời.
Đoàn quân tập trung hỏa lực nhắm vào xe giặc đang tiến dần tới
điểm chết, nhưng bỗng có tiếng súng nổ, đạn từ chiếc xe đi đầu
nã ra, cha tôi ngoái nhìn và trông thấy nội như cánh bướm hồng
chấp chới, ông chưa kịp kêu lên: “Mẹ...” thì nội đã ngã nhào.
Cha tôi vọt khỏi ổ phục kích chạy về phía nội, Dư tư lệnh đành
cho nổ súng tiêu diệt đoàn xe. Mặt nội úp xuống đất, máu đỏ như
màu rượu cao lương ọc trào lên từ hai lỗ đạn trên lưng. Cha tôi
lật người nội trở lại, dung mạo vẫn đoan trang, mái tóc vẫn óng
mượt, phẳng phiu dưới hai cái kẹp sừng, vài hạt cao lương bay
xuống đậu bên đôi môi của nội. Cha tôi đặt nội nằm trên những
thân cây cao lương, nhìn miệng nội dần dần biến sắc, cha nấc lên
từng tiếng. Nội thì thào: “Cha con đâu?”. “Cha nào hở mẹ?”. “Dư
tư lệnh, cha nuôi ấy”. “Ông đang đánh giặc ở đằng kia”. “Người
đó chính là cha đẻ của con...” - cha tôi gật đầu, lặng nhìn phút
lâm chung của nội. Hai phát đạn từ sau lưng xuyên qua bầu vú, bộ
ngực trắng nõn của bà giờ đã rực hồng, bà vui sướng trông rõ
những bông cao lương đung đưa, trông rõ khuôn mặt người con trai,
tác thành bởi một cuộc tình thắm đỏ như cao lương quê hương, bà
mỉm cười e ấp và có vẻ như thẹn thùng xấu hổ nhớ lại quá vãng
thật ngọt ngào và đẹp đẽ...
Đơn Biển Lang quả đã mắc bệnh kinh phong, hai đêm ở nhà chồng,
nội tôi thức trắng với con dao trong tay, sáng ngày thứ ba cố
tôi say túy lúy dẫn nội về, bà giận lắm. Nội tôi ngồi vắt vẻo
trên mình con la, vừa rẽ qua quãng đường cong thì một bóng đen
bỗng ào ra, bồng nội chạy mất hút vào ruộng cao lương ken dày
như rừng rậm. Nội không còn sức lực nào mà vùng vẫy nữa và bà
cũng chẳng muốn vùng vẫy làm gì, thậm chí còn quàng tay qua cổ
bóng đen để người ấy bồng bà nhẹ nhàng, thoải mái hơn. Ba ngày
sống giữa rừng cao lương, nội tôi như qua một giấc mơ, thấm đậm
lẽ đời nhân thế. Người ấy tháo tấm vải đen che mặt, hiện nguyên
hình, nội thầm kêu trời ơi và nước mắt lưng tròng vì sung sướng.
Chàng cởi tấm áo trải ra làm chiếu, chân đạp mấy cây cao lương
rạp xuống làm giường, rồi nhẹ nhàng bồng nàng đặt lên đó, nàng
nhìn chàng vạm vỡ, cường tráng, bỗng ngây ngất trong lửa tình
rạo rực dồn nén mười sáu năm qua, chàng mạnh bạo lột mọi xiêm y
và nàng mãn nguyện hưởng niềm khoái lạc. Họ yêu nhau như vậy
suốt ba ngày liền và cha tôi chính là kết tinh của cuộc tình
cuồng nhiệt, thống khổ đó. Sau ba ngày đêm ân ái, ông bà tôi
chia tay nhau, ông đưa bà ra đến bờ đường và thoắt một cái đã
biến mất giữa muôn trùng biển máu của cao lương đỏ... để hôm nay
trở thành Dư Chiêm Ngao trở về nhận con và thăm lại tình nhân.
Còn nội, nội vẫn nằm đó trên đệm cây cao lương như mười mấy năm
trước, nhưng đã mệt lắm rồi. Phải chăng cái chết đang dần tới,
phải chăng ta không còn có thể nhìn thấy trời này, đất này nữa
sao, thế còn con ta, người tình của ta? Hỡi trời, người nào có
dạy con trinh tiết là gì, chính chuyên là gì, thế nào là lương
thiện, thế nào là ác tà, con chỉ biết hành động theo cách nghĩ
của con. Con yêu hạnh phúc, con yêu sức mạnh, con yêu cái đẹp,
thân này là của con, con có quyền làm chủ nó, con không sợ phạm
tội, con không sợ trừng phạt, con không sợ rơi xuống mười tám
tầng địa ngục của người. Nhưng con không muốn chết, con muốn
sống, con muốn nhìn thế giới này...
Nội tôi vẫn không rời mắt những ngọn cao lương đỏ, đung đưa,
mông lung, chúng kỳ ảo, chúng rên la, chúng kêu gọi, có lúc như
người thân, có lúc như ma quỷ, như đàn rắn quẩn quanh người nội,
chúng cười, chúng khóc, xanh đỏ trắng đen biến hóa khôn lường...
Cha tôi chạy nhanh về phía Dư tư lệnh, hốt hoảng, thất thanh:
“Mẹ nhớ cha, cha ơi”. “Con ngoan của ta, hãy cùng cha diệt nốt
mấy thằng chó đẻ này đã”. Trận mạc tan khói súng, cha con họ vội
chạy tới bên người thiếu phụ thì bà không còn sống nữa, nhưng
khuôn mặt vẫn rạng rỡ cao quý dành riêng cho tình nhân cao lương
đỏ, ông nội tôi vuốt mắt bà, rồi chặt ngã bao cây cao lương phủ
đầy lên thi thể người quá cố.
Nắng chiều chiếu xiên qua chiến trường, dưới kia dòng sông một
màu máu đỏ, trên này cánh đồng cũng đỏ bởi ruộng cao lương. Cha
tôi tha thẩn nơi bờ đê, cúi nhặt chiếc bánh và đưa cho ông nội:
“Cha ơi, cha ăn đi, bánh của mẹ con làm cho cha đó”. Tư lệnh Dư
Chiêm Ngao cắn từng miếng bánh, hòa với dòng lệ tuôn trào, lần
đầu tiên người anh hùng đã không cầm được nước mắt.
Hết |