Bàng
Quyên đánh vùi với Điền Kỵ, Tu Văn Long, Tu Văn Hổ tới tối
mà
không phân thắng bại. Vì vậy chàng liền nghĩ ra kế đà đao, vụt
quày
ngựa bỏ chạy. Điền Kỵ không biết, sải ngựa rượt theo.
Bàng Quyên chờ Điền Kỵ nhào xuống ngựa rồi bắt đem về cho vua
Ngụy. Vua Ngụy cả mừng sai giam Điền Kỵ vào Nam lao chờ khi nào
vua Tề có hàng thơ gởi sang sẽ tha cho về.
Tướng Tề là Tu Văn Long, Tu Van Hổ thấy Điền Kỵ bị bắt nhắm
mìnnh không thể cự nổi bèn kéo binh lén về nước váo ra mắt Tề
vương
tâu rõ đầu đuôi việc chiến đấu. Tề vương nghe qua lập tức nhóm
các
quan bàn mưu nghĩ kế để cứu Điền Kỵ ra khỏi Nam lao. Quan thượng
đại
phu Bốc Thương dâng kế rằng:
-
Nay bệ hạ viết hàng thơ và bày cống lễ, hạ thần sẽ sang Ngụy để
cưư Lỗ vương về.
Tề
vương nhận lời. Hàng thơ cống lễ sắp đặt an bài. Bốc Thương liền
mang qua nước Ngụy vào ra mắt vua Ngụy tâu rằng:
-
Hạ thần là Bốc Thương ở nước Tề, nhơn vì Điền Lỗ vương mạo
phạm oai trời, nên hạ thần sang dâng hàng thơ và cống lễ cầu đại
vương
mở
lượng nhân từ tha cho Lỗ vương về nước. Tự hậu nước Tề chúng tôi
xin tấn cống mãi không dám sai lời.
Vua Ngụy nghe dứt cầm hàng thơ lê xem ý muốn buông tha Điền Kỵ.
Bàng Quyên lật đật tâu rằng:
-
Điền Kỵ là vương tử nước Tề, nếu tha hắn về bất phục. Chi bằng
hãy cắt râu bôi phấn vào mặt hắn để thị oai, ấy gọi là tha tội
chết mà
phải trừng mặt. Làm cho hắn tởn không dám gây gổ nữa. Lại chư
hầu
trong thiên hạ cũng ghê bệ hạ là lẫm liệt.
Vua Ngụy nghe theo lời Bàng Quyên, sai người vào Nam lao cạo râu
và
bôi phấn vào mặt Điền Kỵ rồi đem ra giao trả cho Bốc Thương.
Đây lại nói vua Ngụy có nàng công húa tên Thoại Liên, tuổi vừa
hai
tám, nhan sắc tuyệt vời. Vua bèn lựa ngày tốt gả cho Bàng Quyên,
phong
Bàng Quyên làm phò mã, tước Võ âm quân, kiêm chức Trấn Ngụy Phi
Hổ
Đại nguyên soái, ban cho ngự đái và bảo kiếm nữa.
Đó là
vua Ngụy
đã
giữ trọn lời hứa.
Một
hôm vua Ngụy cho vời Bàng Quyên tới trước điện dạy rằng:
- Quả
nhơn nhờ khanh phò tá thế mạnh như non cao có cọp to. Nay
quả
nhơn muốn thừa cơ hội thâu cả sáu nước về Ngụy. Vậy ý khanh nghĩ
như
thế nào?
Bàng
Quyên tâu rằng:
-Xin
bệ ạ chớ vội. Nay tuy thắng được Tề, chớ Tần, Yên, Triệu, Sở,
Hàng
vẫn chưa thuần phục. Nếu khinh động e họa hổ bất thàng. Theo ý
hạ
thần thì nên lập bài Đại ngôn để trấn áp sáu nước, hẹn ba năm phải
vào
cống, bằng không chừng ấy sẽ cư binh cũng chảng muộn.
Ngụy
vương khen phải, lập tức sai quan lo dựng bài Đại ngôn, Bàng
Quyên
thủ bút đề rằng:
Phò
mã nước Ngụy Võ âm quân,
Thiên
hạ ai ai đều rõ danh.
Muốn
kéo binh ra thâu sáu nước,
Trước
tay thử phá đám Tề quân.
Nước
Ngụy mới ra một tướng tái,
Danh
rền các nước thảy kiên oai.
Thử
hươi bửu kiếm trời vang rúng,
Thiên
hạ quyền hành nắm một tay.
Báng
Quyên nước Ngụy thật tài danh.
Nghe
tiếng ai ai cũng thất kinh.
Các
nước biết thân mau tấn cống.
Họa
may mới khỏi hại quân binh.
Đề
bài Đại ngôn rồi, Bàng Quyên để năm sáu tên quân ở giữ, dặn khi
nào
gặp người nước ngòai đi ngang thì bắt phải sao một bổn đem về
nước
rội
ba năm phải sang tấn cống.
Bây
giờ trong nước Ngụy có một vị hiền sĩ vốn học trò giỏi của Quỷ
Cốc,
tên là Huất Liêu. Người này hay về quê bói số xem quẻ, cũng ành
binh
pháp, nhưng cùng học trò là Vương Ngao vẫn ở ẩn trong Di Sơn mà
thôi.
Nay nghe Bàng Quyên lập bài Đại ngôn, Hất Liêu bèn nói với
Vương
Ngao rằng: "Tài của Bàng Quyên không bằng Tôn Tẩn, thế mà
dám ỷ
sức khi người. Ta lo là khi Tôn Tẩn xuống trần giúp cho một nước
nào
thì nước Ngụy phải nguy. Vậy mi nên xuống đó phá bài Đại ngôn để
trừ
hậu họa và tiến cử Tôn Tẩn cho chúa Ngụy". Vương ngao vâng lời
xách
búa đồng đi thẳng vào kinh thành đẽo bỏ bài Đại ngôn. Quân giữ
bài
liền bắt Vương Ngao giải vào dinh phò mã. Bàng Quyên trông thấy
Vương
Ngao thì cả giận nạt rằng:
- Mi
là ai mà dám phá bài Đại ngôn của ta?
Vương
Ngao đáp:
-
Không cần biết ta là ai, ta là người ghét kẻ tiểu tử lam phách
nên tới
phá
mà thôi.
Bàng
Quyên cả giận sai người kéo Vương Ngao ra chém. Vương
Ngao
cười rằng:
-
Khoan đã có việc gì mà chém ta. Ta vẫn nghe kẻ có danh ít bền
vững,
kẻ phách lối phải bị tai. Nay ngươi mới tới Ngụy, may mà thắng
được
Tề, đã vội lên mặt chớ ngươi có biết trong thiên hạ còn biết bao
kẻ
anh
hùng không?
Bàng
Quyên nói:
- Mi
biết ai là anh hùng hãy kể cho ta nghe!
Vương
Ngao nói:
- Tần
có Bach Khởi, Sở có Vương Tiểng, Triệu có Liêm Pha, Hàng có
Trương
Xa, Yên có Tôn Tháo, Tề có Điền Văn, Điền Kỵ. Nếu sáu nước
hiệp
binh tới đánh Ngụy thì ngươi phỏng có kế gì thắng được hay không
mà
sớm dám khoe tài ỷ thế?
Bàng
Quyên nghe mấy lời, hối hận vô cùng, lật đật xin lỗi và mời
Vương
Ngao lên ngồi rồi hỏi rằng:
-
Tiên sinh tên họ là chi?
Vương
Ngao nói:
- Tôi
họ Vương tên Ngao, học trò của Huất Liêu. Thầy tôi với túc hạ
là
bạn học, môn đồ của Quỷ Cốc tiên sinh. Vì tình hữu nghị, tôi
dâng
mấy
lời cho túc hạ rõ.
Bàng
Quyên hỏi:
-
Tiên sinh vân du thiên hạ có biết ai là kẻ hiền tài chăng?
Vương
Ngao nói:
- Chỉ
có bạn học của túc hạ là Tôn Tẩn thôi. Vì từ lúc túc hạ xuống
núi
tới nay.Tôn Tẩn được Quỷ Cốc truyền thọ binh tho, đồ trận, dị
pháp
kỳ
mưu đủ cả. Néu được người đó giúp sức với túc hạ mà lo việc Nguy
thì
lợi vô ngần, chư hầu không ai là chẳng thuần phục.
Vương
Ngao nói dứt kiếu từ về Di Sơn.
Vương
Ngao đi rồi, Bàng Quyên suy nghĩ giây lâu mới quyết định
phải
cầu Tôn Tẩn giúp sức để lo việc lớn cho nước Ngụy. Vậy hôm sau
Bàng
Quyên liền vào chầu vua Ngụy mà tâu rõ việc Vương Ngao phá
bài
Đại ngôn và tiến cử Tôn Tẩn. Ngụy vương cả mừng, lập tức sai Từ
Giáp
lên núi Vân Mộng rước Tôn Tẩn.
Nhắc
lại Tôn Tẩn nán ở trong động Thủy Liêm mà học thêm phép
với
Quỷ Cốc. Ngày nọ Tôn Tẩn hỏi Quỷ Cốc rằng:
- Làm
sao mà biết trước vận nước thịnh suy được?
Quỷ
Cốc nói:
- Cứ
xem ở tinh tượng. Sao Châu bá là thoại tinh của nước, sao Thiên
bao
là tai tinh của nước. Nước mà thịnh vượng thì sao châu bá sáng
rực,
nước
mà suy rồi thì sao Thiên bao mờ tối.
Quỷ
Cốc đáp dứt lời lại bảo Tôn Tẩn rằng:
- Sau
động có cây đào tiên, cứ mười năm là nở hoa đơm trái một lần,
đơm
trái rồi tới bốn mươi chín ngày thì trái chín, ăn được trái ấy
thì khỏi
bệnh,
thêm tuổi, thật là đào quý của nhà tiên. Hôm thầy đi hái thuốc
trở
về
thấy đào đã có trái gần chín. Vậy con nên ra đó thăm chừng kẻo
bị
chúng
hái trộm thì uổng lắm.
Tôn
Tẩn vâng lời thầy đi ra sau núi tới dưới cội đào xem. Thấy đào
mơn
mởn tốt thì thích lắm, đếm thử chỉ có bốn mươi tám trái thoi.
Tôn
Tẩn
lấy làm lạ song không đem việc mất đào mà nói cho thầy hay. Qua
ngày
sau Tôn Tẩn lại tới thăm nữa, đếm lại chỉ còn bốn mươi bảy trái.
Chàng
nghĩ là có kẻ trộm, định chí đẽm ấy rình bắt kẻ gian trừng trị
cho
hả
giận.
Tối
đến, Tôn Tẩn tới gần cội đào tìm chỗ kín ẩn mình mà rình. Rình
tới
canh hai, bỗng nghe trên ngọn đào có tiếng động. Tôn Tẩn dòm lên
thấy
một con vượn trắng lông mượt như tuyết thì cả ận, vụt gậy đánh
lên
rất
mạnh. Con vượn bị đánh té nhào xuống đất, nói tiếng người rằng:
-
Lạy thầy xin tha mạng cho tôi.
Tôn Tẩn hỏi:
-
Mi là nghiệt súc ở đâu mà biết nói tiếng người?
Vượn trắng đáp:
-
Nhà tôi ở mé bắc động Thủy Liêm, ông tôi là Ba tây hầu, cha là
Quyên Công, mẹ là Sơn Hoa công chúa. Ba đời tu luyện nên biết
nói
tiếng người.
Tôn Tẩn hỏi:
-
Sao mi dám hái trộm đào tiên của thầy ta?
Vượn trắng thưa:
-
Chẳng giấu chi thầy, vì mẹ tôi đau nặng, nói rằng thèm đào, vì
lòng
thương mẹ nên tôi đánh liều tới hái trộm một trái đào cho mẹ ăn.
Mẹ ăn
xong thấy trong mình khỏe khoắn nen lại sai tôi đi hái thêm.
Thiệt tình
tôi đã hái trộm của thầy hết hai trái rồi. Tới hôm nay chưa kị
hái trái thứ
ba
thì đã bị thầy bắt được. Moou6n lạy thấy, tôi hái r6ọm đào, dầu
thầy
giết chết cũng chẳng hại, song tội nghiệp mẹ toi già cả đau ốm
không
biết
nhờ ai nâng đỡ lo lắng. Vậy xin thầy rộng lòng tha cho mẹ con
tôi
một
khi!
Tôn
Tẩn nghe dứt, hái một trái đào trao cho con vượn trắng mà nói:
- Mi
là con thảo, ta chẳng nỡ giết. Ta cho một trái đào này, mi đem
về
cho mẹ mi, nhưng tự hậu không được trôm cắp nữa.
Vượn
trắng được đào, vô cùng bội phục nói:
-
Thầy đã tha tội lại còn cho đào, ơn nặng biết lấy chi đền. Nay
chỉ có
ba
quyển thiên thơ, thầy hãy đợi tôi lấy đem dâng, gọi là ơ đền
nghĩa trả.
Tôn
Tẩn nghe dứt lấy làm lạ hỏi rằng:
-
Thiên thơ gì ở đâu mà mi có?
Vượn
trắng đáp:
-
Thật tôi không có. Thiên thơ đó là của thầy Quỷ Cốc cất trong
hộp
đá ở
động Trù Kim. Thầy đứng đây một lát tôi đi lấy đem lại cho.
Vượn
trắng nói rồi nhảy đi.
Chẳng
bao lâu, Tôn Tẩn nghe trên không có tiếng kêu: "Thầy ơi! Đón
thiên
thơ đây". Liền thấy trên không thấy ba quyển sách nhỏ. Tôn Tẩn
tiếp
lấy thì thấy trên có đề bốn câu thơ rằng:
Tại
sao người lại lậu cơ trời
Gây
họa to rồi há phải chơi.
Tôn
Tẩn may nhờ truyền phép lạ.
Trả
ơn vượn trắng tặng thiên thơ.
Tôn
Tẩn được thiên thơ, ca củm đem về phòng thắp đèn mà đọc. Lúc
ấy
thình lình gió lạnh thổi đến, mây kéo mịt mù, trên không nổi sám
rền
vang.
Quỷ Cốc đương ngồi trên bồ đoàn nghe sấùm bèn đứng dậy đi tuần
quanh
động. Đi tới phòng của Tôn Tẩn nghe tiếng đọc thiên thơ, Quỷ
Cốc
thất kinh xô của bước vào nói:
-
Thiên thơ ta cất ở hộp đựng đá bên động Trù Kim, vì mi chưa tới
số
phận
nên ta chưa truyền, thế mà sao mi lai có mà học?
Tôn
Tẩn bèn đem chuyện con vượn trắng mà thuật lại. Quỷ Côùc nói:
-
Phải rồi, con yêu đó nó trộm mà cho ngươi. Ta không tiếc gì.
Song
ta lo
vì lúc mi tiếp chiêu thơ không tắm gội, để ô uế phạm tới thiên
thần,
e về
sau không khỏi nạn một trăm ngày.
Tôn
Tẩn biến sắc hỏi:
- Vậy
mà thầy có phương chi cứu con không?
Quỷ
Cốc nói:
-
Thầy có phép trấn áp, nếu con tuân theo thì sẽ cứu được. Này,
sau
núi
về mé Nam có ngôi mộ đá bỏ trống, con nên chun đầu vô đó mà
nằm,
day đầu về Nam trở chân lại Bắc, nằm bốn mươi chín ngày thì khỏi
nạn.
Thầy cho con bốn mươi chín hột gạo ngậm trong miệng, đừng nuốt,
thì
khỏi đói.
Tôn
Tẩn vâng lệnh làm y theo lời. Quỷ Cốc dựng một tấm đá trên mả
đề
chữ:
"Yên
quốc Tôn Tẩn ký táng chi mộ"
(Mộ
chôn nhờ của người nước Yên tên Tôn Tẩn).
Nói
về Từ Giáp lên tới núi Vân Mộng, bèn thẳng tới động Thủy
Liêm.
Vừa tới cửa động bỗng gặp một tên đạo đồng hỏi rằng:
- Ông
là sứ thần của nước Ngụy à?
Từ
Giáp thất kinh đáp phải, rồi cậy đạo đồng dắt vào ra mắt Quỷ Cốc
tiên
sinh. Đạo đồng dắt vào trước bồ đòan, Quỷ Cốc hỏi lai lịch. Từ
Giáp
bèn
đem ý chỉ của mình mà tỏ ra. Quỷ Cốc thở dài mà rằng:
-
Tiên sinh lặn lội xa xôi thành ra vô ích, học trò tôi là Tôn Tẩn
đã
chết
lâu rồi.
từ
Giáp hỏi:
-
Lịnh đồ chết vì bịnh hả?
Quỷ
Cốc nói:
- Bởi
bản chất nó ngu độn, học đạo sáu năm trời mà không thông
hiểu
binh thơ chiến pháp chi, nên nó rầu rĩ uất khí mà chết.
Từ
Giáp nói:
- Tôn
lịnh đồ vô phước như vậy, chính là tôi chúa nhà Ngụy vô phước
đó.
Nói
rồi từ tạ Quỷ Cốc trở về nước Ngụy tâu rõ đầu đuôi cho Ngụy
vương
hay. Ngụy vuương nữa tin mà lại nữa ngờ.
Lúc
bấy giờ, có Bàng Quyên ngồi bên cạnh, nghe câu chuyện như
vậy
bèn tâu rằng:
- Tâu
bệ hạ đó là kế của thầy tôi cầm T6n Tẩn ở lại núi chớ thật sự
thì
ảnh chưa chết.
Ngụy
vương nói:
- Lấy
cớ gì mà khanh dám chắc như vậy?
Bàng
Quyên nói:
-
Phàm người nào chết thì sao chơn mạng của người ấy phải xẹt mất.
Hồi
hôm thần xem tinh tượng thấy sao của Tôn Tẩn còn thế mà gọi chết
la chết
làm sao?
Ngụy
vương khen phải, day qua hỏi Từ Giáp:
-
Khanh nghe nói Tôn Tẩn chết mà chính mắt có thấy mả chôn ở đâu
không?
Từ
Giáp tâu:
- Chỉ
nghe theo lời Quỷ Cốc nói chớ chưa xem tường mả chôn.
Ngụy
vương nói:
- Thế
thì khanh lầm. Vậy bây giờ phải đi cầu Tôn Tẩn một lần nữa.
Từ
Gia vâng mạng ra đi.
Tới động
Thủy Liêm, Từ Giáp vào ra mắt Quỷ Cốc và nói:
- Cứ
theo lời sư cụ, tôi về tâu với vua tôi, vua tôi không tin, nói
rằng
nếu
lịnh đồ quả chết ắt đã có mộ phần. Vậy phiền sư cụ cho tôi tới
viếng
mộ phần
của lịnh đồ một phen.
Quỷ
Cốc cười, dắt tay Từ Giáp ra phía sau núi chỉ ngôi mả đá cho
xem.
Từ Giáp thấy trên mà quả có một bia đề rõ ràngnhư vậy nên tin
thiệt,
từ tạ Quỷ Cốc trở về nước tâu lại cho Ngụy vương hay. Ngụy vương
không
còn nghi ngờ gì nữa. Duy Bàng Quyên thì không tin, bước ra tâu
rằng:
-
Thần xem sao luôn mấy đêm, quả Tôn Tẩn chưa chết. Cầu không
được
Tôn Tẩn là tại Từ Giáp quá dở mà thôi. Bây giờ bệ hạ phải định
tội
treo
Từ Giáp, rồi khiến y đi một lần nữa rồi mới xong.
Ngụy
vương suy nghĩ giây lâu rồi hỏi:
- Bay
giờ khanh định treo tội Từ Giáp thế nào?
Bàng
Quyên tâu:
- Nên
sai quân bắt hết người nhà của Từ Giáp giam vào Nam lao rồi
sai y
đi lên núi Vân Mộng. Như cầu được Tôn Tẩn xuống núi thì tha tội
cho, lại gia thăng ba cấp. Bằng cầu không được thì tru di cả nhà
và lăng
trì Từ Giáp. Có làm như vậy mới cầu được hiền tài. Nếu lôi thôi
để Tôn
Tẩn giúp nước khác thì nước Ngụy bị họa to.
Nghe lời bàng Quyên nói có lý, Ngụy vương bèn sai quan đem binh
tới bao nhà Từ Giáp bắt hơn một trăm quyến thuộc, đem giam vào
Nam
lao rồi sai Từ Giáp lên núi Vân Mộng lần nữa. |