Một
hôm, tôi bước vào phòng khách thì thấy Sherlock
Holmes đang say sưa trò chuyện với một người đàn
ông vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, mái tóc
màu hung đỏ rực như lửa. Tôi xin lỗi vì sự đường
đột và đang định quay ra, thì Sherlock Holmes đã
kéo tôi vào, rồi đóng cửa lại.
Watson thân mến, anh đến thật đúng lúc - anh
nói.
- Tôi sợ anh đang bận.
- Đúng, rất bận là đằng khác.
- Vậy để tôi sang phòng bên đợi anh.
- Không sao đâu. Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson
đây là một cộng sự và là một trợ thủ của tôi trong
nhiều vụ án thành công nhất. Tôi tin chắc trong
vụ này ấy cũng sẽ rất hữu ích.
Người đàn ông to béo hơi nhổm dậy, gật đầu chào,
liếc cặp mắt nhỏ nhìn tôi, vẻ dò xét.
-Watson thân mến - Sherlock Holmes nói - tôi
biết anh từng chia sẻ cùng tôi lòng say mê tất
cả những gì bí ẩn, và trái với lẽ thường. Đây,
ông Jabezz Wilson có chuyện kỳ lạ nhất mà tôi
từng nghe thấy trong mấy tháng nay. Ông Wilson,
theo tôi, ông nên vui lòng kể lại từ đầu. Tôi
yêu cầu như vạy không phải chỉ vì bác sĩ Watson,
bạn tôi, chưa được nghe phần đầu, mà còn vì câu
chuyện kỳ lạ này khiến tôi háo hức múon nghe kỹ
lại mọi tình tiết. Thông thường, chỉ cần nghe
qua vài tình tiết là tôi đã liên tưởng đến hàng
ngàn vụ tương tự mà mình còn nhớ. Nhưng với vụ
này, tôi phải buộc lòng thừa nhận rằng nhiều điểm
quả là có một không hai.
Ông khách hàng lôi từ túi trong chiếc áo choàng
đang mặc ra một tờ báo ố bẩn, nhàu nát. Cúi người
xuống, ông đưa mắt nhìn vào mục quảng cáo đăng
trên tờ báo trải trên đùi.”Đây rồi”, ông vừa nói
vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào, chỉ vào đoạn
dưới nằm giữa cột quảng cáo.
- Toàn bộ câu chuyện mở đầu từ chính cái mẩu
này đây. Xin ông tự đọc lấy thì hơn.
Tôi đón lấy tờ báo, rồi nhẩm đọc:
“Hội những người tóc hung”. Thể theo ý nguyện
mà ông ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania,
U.S.S di chúc lại thì giờ đây, Hội cần tuyển một
hội viên làm một công việc nhàn nhã với mức lương
4 bảng/tuần, trích từ các khoản tài sản của ông.
Mọi người có mái tóc hung đỏ và có thể lực, trí
lực tốt, trên 21 tuổi, đều có thể dự tuyển. Đơn
từ xin gửi về cho ông Duncan Ross, vào sáng thứ
Hai, lúc 11 giờ, tại văn phòng Hội, số 7 Pope’s
Court, đường Fleet Street, Luân Đôn”.
- Chuyện quái quỉ gì thế này? - tôi kêu lên sau
khi đọc đi đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ quặc
đó .
Sherlock Holmes mỉm cười:
- Chuyện khá kỳ quặc, đúng không? - anh nói.
Bây giờ, ông Wilson, xin ông kể về chính ông,
gia cảnh ông và ấn tượng mà mẩu quảng cáo này
gây nên cho ông.
- à, thì cũng như tôi vừa kể với ông đấy, ông
Sherlock Holmes - Jabez Wilson nói. Tôi có một
cửa hiệu cầm đồ nhỏ, tại Coburg Square, gần khu
City. Công việc làm ăn của tôi chẳng bề thế gì
cho lắm, và gần đây lời lãi chỉ tạm đủ sống. Trước
tôi có thể thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng
giờ thì chỉ còn dám thuê có một và cũng khó trả
nổi tiền lương cho người ta, trừ phi người ấy
vui lòng hưởng phần nửa mức lương thông thường,
coi như để có dịp làm quen với công việc ở đây.
- Thế anh chàng sốt sắng ấy tên là gì? - Sherlock
Holmes hỏi.
- Tên hắn là Vincent Spaulding. Hắn không còn
trẻ nữa. Tuổi tác hắn thật khó đoán. Hắn là một
nhân viên nhanh nhẹn, ông Sherlock Holmes ạ, và
tôi thừa biết hắn dễ dàng kiếm được một công việc
khá hơn thế này nhiều, lương bổng cao gấp đôi
so với đồng lương mà tôi trả hiện nay. Nhưng rốt
cục, hắn vẫn nhận, và nếu hắn thấy bằng lòng,
thì việc gì tôi lại gợi ý cho hắn rằng hắn đã
chịu thiệt kia chứ?
- Đúng, chẳng ích gì thật. Xem ra ông quả tốt
số khi kiếm được một tay phụ việc như hắn. Chắc
hắn cũng đang chú ý chính mẩu quảng cáo này.
- ồ, hắn cũng có nhược điểm đấy - ông Wilson
nói. Tôi chưa từng găp một ai mê ảnh như gã này.
Hễ cao hứng là bấm máy lia lịa, rồi nhanh như
một con thỏ chui tọt xuống hầm rượu in in tráng
tráng những pô ảnh vừa chụp xong. Đó là nhược
điểm chính của hắn; còn nhìn chung thì hắn rất
được việc. Tôi thấy chẳng có gì đáng phàn nàn.
- Tôi đoán: chắc hiện giờ hắn vẫn còn làm cho
ông?
- Vâng, thưa ông. Hắn với một cô bé mười bốn
tuổi chỉ lo việc bếp núc và dọn dẹp. Ngoài ra
nhà tôi chẳng còn ai, vì tôi không vợ không con.
Ba chúng tôi sống rất bình lặng, thưa ông, cho
tới lúc .. .
Mọi chuyện bắt đầu bị đảo lộn kể từ ngày tôi
đọc được mẩu quảng cáo này. Một hôm, chuyện đó
xảy ra cách đây hơn tám tuần, Spaulding bước vào
cửa hiệu với tờ báo này trên tay, và nói “ước
gì tôi cũng được trời phú cho một mái tóc hung
đỏ, ông Wilsong ạ”.
- Sao vậy? - Tôi hỏi.
- Sao ư? - hắn nói. Ông cứ đọc mẩu thông báo
tuyển người của Hội Tóc Đỏ đây khắc rõ. Ai may
mắn chắc sẽ kiếm được một gia tài nhỏ chứ chẳng
phải đùa. Tôi chắc họ còn khuyết nhiều hội viên
so với số người xin vào hội. Chỉ cần mái tóc tôi
đổi màu là tôi sẽ sẵn sàng xin nhập hội ngay,
vì đây là một công việc tôi thấy thật nhàn nhã.
- Sao, vậy nghĩa là thế nào? - tôi hỏi hắn. Ông
Sherlock Holmes, ông thấy đó, vì công việc của
tôi không bắt tôi phải chạy ngược chạy xuôi tìm
khách hàng, nên có khi suốt mấy tuần lễ, tôi chẳng
bước chân ra khỏi nhà. Vì vậy, tôi chẳng biết
gì nhiều về những chuyện diễn ra xung quanh, nên
bao giờ tôi cũng háo hức nghe kể những chuyện
mới lạ.
- Thế đã bao giờ ông nghe nói tới Hội Tóc Đỏ
chưa? - hắn hỏi tôi.
- Chưa bao giờ.
- ồ, ông chính là người có thể chiếm được một
trong những chỗ khuyết ấy đấy.
Thế họ có thể kiếm được bao nhiêu? - tôi hỏi.
- à, mỗi năm chỉ vài trăm bảng thôi, nhưng được
cái là công việc rất nhàn nhã, vả lại không ảnh
hưởng gì nhiều tới những chuyện họ đang làm.
Vâng, điều hắn kẻ khiến tôi phải dỏng tai lên
nghe. Mấy nămnay, công việc làm ăn của tôi khôngkhấm
khá lắm, nên cơ may kiếm thêm được vài tramưbảng
quả hết sức hấp dẫn.
- Này, hãy kể hết tôi nghe những gì anh biết
về cái Hội nọ, tôi bảo hắn.
- Vâng hắn đáp và chìa cho tôi xem mẩu quảng
cáo nọ - như chính ông thấy đó, Hội đang khuyết
một chỗ. Họ có đăng đại chỉ rõ ràng; ông có thể
đến đó hỏi thêm. Theo tôi được biết, Hội này do
Eekiah Hopkins, một triệu phú Mỹ tính nết hết
sức khác người, lập ra. Tóc ông ấy đỏ rực, nên
ông ấy rất thiện cảm với hết thảy những ai có
mái tóc cùng màu. Bởi vậy, sau ngày mất, ông ấy
đã để lại một tài khoản kếch xù để tạo công ăn
việc làm nhàn nhã cho những ai cùng màu tóc với
ông ta. Tôi nghe nhiều người đồn là công xá khá
hậu mà công việc lại chẳng vất vả gì lắm.
- Nhưng - tôi nói - số người tóc hung nộp đơn
khéo lên đến cả hàng triệu.
- Không nhiều như ông tưởng đâu - hắn đáp. Như
ông thấy đó, Hội chỉ nhận những ai người Luân
Đôn. Ông triệu phú này vốn sinh ở Luân đôn, và
sống tại đây thời trai trẻ, nên muốn làm những
việc tốt đẹp cho thành phố nơi mình sinh trưởng.
Hơn nữa, tôi còn nghe nói, Hội không dành chỗ
khuyết đó cho những ai tóc màu hung nhạt, hung
sẫm, hoặc bất kỳ sắc hung nào, mà chỉ dành cho
người có một mái tóc thật, màu hung đỏ, đỏ rực
như lửa. Ông Wilson, nếu muốn nhập đơn, ông nên
đến ngay đi. Nhưng xem ra chắc ông chẳng thèm
mất công chỉ để kiếm được có vài trăm bảng.
Nhưng chắc quí ông thấy đó, tóc tôi quả thực
màu hung đỏ với đủ mọi sắc thái mà chính mẩu quảng
cáo kia đòi hỏi. Tôi tự cảm thấy nếu phải dự tuyển,
tôi sẽ có nhiều cơ may hơn bất cứ ai tôi từng
gặp từ trước tới giờ. Vincent Spaulding xem ra
biết rõ chuyện này nhiều hơn những gì tôi có thể
trông đợi ở hắn, nên tôi lập tức ra lệnh cho hắn
đóng cửa hiệu, rồi chúng tôi liền lên đường, tìm
đến cái địa chỉ đã ghi trong mẩu quảng cáo kia.
Ông Holmes ạ, tôi hy vọng đừng bao giờ sẽ phải
chứng kiến thêm một lần nữa cảnh tượng như thế.
Từ bốn phương đông, tây, nam, bắc, tất cả những
ai có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ đều lũ lượt
kéo đến City để tranh nhau cái chỗ khuyết đăng
trên mẩu quảng cáo kia. Tôi không thể hình dung
nổi rằng trên đất nước Anh lại có đến ngần ấy
người háo hức đổ về đây chỉ vì mẩu quảng cáo vớ
vẩn kia. Màu tóc họ thôi thì đủ mọi sắc độ, nhưng
như Spaulding nói số người có mái tóc thật màu
đỏ rực như lửa, quả không nhiều . Khi thấy có
ngần ấy người đứng đợi, tôi toan bỏ cuộc. Nhưng
Spaulding không chịu nghe. Hắn chen vai thích
cánh mãi cho tới lúc lách được qua đám đông, và
chúng tôi đặt được chân lên những bậc tam cấp
dẫn lên văn phòng.
Trong văn phòng tôi chẳng thấy bày biện gì nhiều
, ngoài mấy chiếc ghế gỗ và một cái bàn. Ngồi
tại đó là mọt người bé loắt choắt, màu tóc còn
đỏ hơn cả tóc tôi. Hắn nói vắn tắt vài câu với
từng người dự tuyển, rồi với ai cũng cố tìm một
vài khiếm khuyết này nọ để từ chói. Chiếm được
chỗ khuyết đó xem ra chẳng dễ. Nhưng khi đến lượt
tôi, anh chàng loắt choắt nọ tỏ ra hài lòng hơn
bất cứ ai khác. Hắn đóng chặt cửa lại ngay sau
lúc chúng tôi bước vào, để có thể trò chuyện riêng
với hai chúng tôi.
- Đây là ông Jabez Wilsong - Spaulding nói -
ông ấy đến để dự tranh chỗ khuyết mà Hội đang
tuyển.
- Ông ấy rất xứng đáng - gã nọ đáp. Lâu lắm rồi,
tôi chưa từng thấy một mái tóc nào tuyệt như thế
này. Hắn lùi lại một bước, nghiêng đầu ngắm nghía
mái tóc tôi. Rồi thình lình chồm tới nắm chặt
tay tôi, chức mừng tôi trúng tuyển.
- Không còn gì để phân vân nữa - hắn nói. Nhưng
để biết chắc, xin ông thứ lỗi, tôi phải thật thận
trọng để đề phòng. Nó chưa dứt lời, hắn đã dùng
cả hai tay tóm chặt tóc tôi giật lấy giật để cho
tới lúc tôi rơm rớm nước mắt. “ông ứa nước mắt
kìa - hắn vừa nói vừa buông tay ra. Tôi thấy mọi
cái đều ổn. Nhưng chúng tôi phải thận trọng, vì
chúng tôi đã hai lần bị lừa, một lần thì tóc giả,
một lần thì tóc nhuộm.” - Hắn đến bên cửa sổ và
lớn tiếng báo cho đám đông rằng đã tìm được ứng
viên thích hợp. Tiếng suýt xoa và kêu la vì thất
vọng từ dưới đường vọng lên, và mọi người lục
tục bỏ đi, tản ra nhiều ngả, cho tới lúc chẳng
còn thấy mái tóc hung nào, ngoại trừ mái tóc hung
của tôi và của gã lo việc tuyển chọn các ứng viên.
- Tên tọi là Duncan Ross - hắn nói. Bao giờ thì
ông có thể bắt tay vào công việc?
- à, có một điều hơi bất lợi là tôi đang bận
chuyện làm ăn ở nhà - tôi đáp.
- ồ, ông Wilson, ông đừng lo! Vincent Spaulding
nói. Tôi có thể thay ông trông coi.
- Tôi phải làm việc vào những giờ nào? - tôi
hỏi.
- Từ mười giờ sáng đến hai giờ chiều.
Hiện giờ, ông Holmes ạ, cửa tiệm cầm đồ của tôi
chủ yếu chỉ làm việc vào buổi chiều và buổi tối,
vì vậy, tôi thấy không có gì bất tiện cho lắm,
nếu kiếm thêm được chút đỉnh vào các buổi sáng.
Ngoài ra, tôi biết tay giúp việc của tôi là người
đáng tin cậy, và hắn ta có thể thay thế tôi xoay
xở mọi việc khi cần.
- Vậy thì rất thuận tiện cho tôi - tôi nói. Còn
thù lao?
- Bốn bảng mỗi tuần.
- Thế công việc?
- Nhàn nhã lắm.
- Ông muốn ngụ ý gì khi gọi là nhàn nhã?
- à, ông phải có mặt hàng ngày tại văn phòng,
hay ít ra cũng tại toà nhà này, trong suốt thời
gian đó. Nếu bỏ ra ngoài, ông sẽ mất việc. Bản
di chúc có ghi rõ điểm này.
- Mỗi ngày chỉ có mặt bốn tiếng thì chuyện không
ra khỏi văn phòng chắc chắn tôi sẽ thực hiện được
thôi - tôi nói.
- Chúng tôi không bao giờ dung thứ vì bất cứ
lý do nào - ông Duncan Ross nói - cả ốm đau lẫn
bận công việc, hoặc bất cứ cớ gì khác. Ông hoặc
phải ở lại, hoặc sẽ bị mất việc.
- Thế tôi phải làm gì?
- Chép lại bộ Encyclopedia Britannica, Bách khoa
toàn thư Anh Quốc. Đây là tập I. Bắt đầu từ mai
trở đi, ông sẵn sàng chưa?
- Dĩ nhiên - tôi đáp.
- Vậy thì tạm biệt ông, ông Jabez Wilson. Một
lần nữa xin chúc mừng ông.
Tôi cùng gã giúp việc trở về, chẳng biết nói
gì hay làm gì thêm: tôi rất mừng rỡ vì tìm được
một công việc béo bở.
Vâng, chuyện đó khiến tôi khấp khởi mừng thầm
suốt ngày, nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo. Tôi
tự thuyết phục mình rằng toàn bộ chuyện này đúng
là một trò đùa, mặc dù thực chất nó là gì, tôi
không sao hình dung nổi. Thật khó tin được rằng
trên đời lại có kẻ để lại một bản di chúc kỳ cục
như thế, và chịu bỏ ra một đống tiền như thế chỉ
để thuê làm một dịch vụ giản dị là chép toàn bộ
Bách khoa toàn thư Anh Quốc. Tuy vậy, sáng hôm
sau tôi vẫn quyết định đến xem tận mắt sự thể
thế nào, nên tôi lên đường đến Pope’s Court.
Tôi sửng sốt và lấy làm thích thú vì mọi chuyện
diễn ra hết sức tốt đẹp, ngoài sức tưởng. Họ kê
sẵn cho tôi một cái bàn, và Duncan Ross ngồi đó
xem tôi bắt tay vào việc ra sao. Gã bảo tôi chép
từ vần A, rồi lát sau bỏ đi, để mặt tôi ngồi chép.
Nhưng chốc chốc lại tạt vào xem tôi làm việc ra
sao. Đúng hai giờ gã khen tôi đã chép được nhiều,
rồi tạm biệt tôi, tiễn tôi ra khỏi cửa, xong khoá
cửa văn phòng ngay khi tôi vừa đi khỏi.
Ông Holmes ạ, việc đó cứ tiếp diễn hết ngày này
sang ngày khác, và đến thứ bảy gã bước vào, trao
cho tôi bốn đồng sovereign vàng để trả cho công
việc tôi làm tuần qua. Tuần sau mọi chuyện lại
diễn ra như tuần đầu rồi tuần tiếp theo nữa cũng
thế. Sáng nào tôi cũng có mặt ở đúng lúc mười
giờ và ra về lúc hai giờ. Càng về sau, Duncan
Ross càng đến thưa dần, chỉ một lần vào buổi sáng,
rồi ít lâu sau, không thấy đến nữa. Tuy vậy, dĩ
nhiên, tôi vẫn không bao giờ dám rời khỏi phòng
dù chỉ một phút. Tôi làm thế nào biết chắc được
lúc nào thì gã xuất hiện, hơn nữa, công việc lại
nhàn nhã, hợp với sở thích tôi, nên tôi không
muốn có nguy cơ bị thải hồi.
Tám tuần liền đã trôi qua như vậy và số giấy
tôi chép được đã chất đầy phân nửa cái giá sách
trong phòng. Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng
nhiên kết thúc.
- Kết thúc?
- Vâng, thưa ông. Mà chỉ mới sáng nay thôi. Tôi
đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc mười giờ,
nhưng thấy cửa khoá và chính giữa có đính một
mẩu thông báo nhỏ, hình vuông, viết trên bìa cứng.
Mẩu thông báo ấy đây, ông có thể tự đọc.
Rồi ông thân chủ chìa ra một mẩu bìa trắng, cỡ
bằng một trang sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ:
“ Hội những người tóc hung đỏ giải thể ngày 9
tháng 10 năm 1890”
Holmes và tôi ngắm nghía mẩu thông báo và gương
mặt rầu rĩ thấp thoáng sau mảnh bìa nọ cho tới
lúc khía cạnh khôi hài của vụ này khiến cả hai
cùng cười phá lên.
- Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện
này - ông thân chủ của chúng tôi kêu lên, mặt
đỏ ửng lên tận mái tóc hung đỏ rực. Nếu quí ông
không thể làm gì khác ngoài việc nhạo báng tôi,
thì tôi đi nhờ người khác ngay đây.
- ồ, không, không - Holmes kêu lên. Tôi thực
tình không muốn bỏ qua vụ này, dù phải chịu mất
bất cứ thứ gì. Nhưng, nói ông bỏ qua cho, trong
chuyện này quả có điểm gì đó rất hài hước, Thế
ông làm gì khi thấy mẩu bìa này đính trên cửa?
- Tôi chưa biết phải làm gì. Tôi tới dò hỏi các
văn phòng kế cận của toà nhà, nhưng chảng ai biết
gì về cái Hội kia. Rốt cục, tôi đành tìm gặp ông
chủ nhà ỏ dưới tần trệt, hỏi xem ông ta có thể
nói cho tôi điều gì đã xảy ra với cái Hội Tóc
đỏ kia không. Ông ấy đáp rằng chưa bao giờ nghe
nói đến nó. Rồi tôi hỏi ông Duncan Ross là ai.
Ông ấy nói: cái tên đó ông mới nghe thấy lần đầu.
- Vâng - tôi nói - đó chính là cái ông thuê căn
phòng số 4.