- à,
cái gã tóc màu hung đỏ chứ gì?
- Đúng thế.
- ồ, - ông ta tiếp - tên gã ấy là William Moris
kia. hắn chỉ thuê tạm căn phòng tôi ít lâu trong
lúc chờ tìm được chỗ mới để đặt văn phòng của
hắn. Hắn vừa dọn đi hôm qua.
- Thế có thể tìm hắn ở đâu?
- à, tại văn phòng mới của hắn. Hắn có cho tôi
biêt địa chỉ đấy. Vâng, đây rồi, số 17, đường
King Edward Street, cạnh giáo đường Saint Paul.
- Tôi đến ngay nơi đó, ông Holmes ạ, tìm được
căn nhà theo địa chỉ, nhưng chẳng ai nghe nói
tới cái tên William Morris lẫn cái tên Duncan
Ross.
- Rồi ông còn làm gì nữa? - Holmes hỏi.
- Tôi quay về Coburg Square, hỏi gã giúp việc
nên tính sao, nhưng gã chẳng nghĩ được cách gì
khả dĩ giúp tôi cả. Chỉ bảo tôi là nên chịu khó
chờ thư từ qua đường bưu điện. Nhưng như thế tôi
thấy chưa yên tâm, ông Holmes ạ. Tôi không muốn
bị mất việc, mà chẳng hề làm gì, chỉ khoanh tay
ngồi chờ. Tôi nghe nói ông rất tốt bụng, sẵn lòng
giúp những ai khốn khổ đến cầu cứu mình, nên đã
tìm đến ông ngay.
- Ông ứng phó như vậy là khôn ngoan, Holmes nói.
Vụ của ông rất đáng chú ý, và tôi rất lấy làm
sung sướng được mời đứng ra giải quyết. Từ những
gì ông vừa kể, tôi nghĩ đây chắc chắn là một vụ
nghiêm trọng hơn so với mức mà người ta có thể
tưởng khi mới nhìn qua.
- Đúng là nghiêm trọng thật! - ông Jabez Wilson.
- Không dưng tôi bị mất bốn bảng mỗi tuần.
- Riêng về phần ông - Holmes nhận xét - tôi thấy
ông không có gì để oán trách cái hiệp hội kỳ quặc
kia cả. Trái lại, theo như tôi hiểu, ông kiếm
thêm được khoảng ba mươi bảng và thu thêm được
ít nhiều tri thức sâu sắc về tất cả các mục được
viết trong vần A. Ông chẳng mất gì cả.
- ồ, không, thưa ông. Nhưng tôi còn muốn dò ra
tung tích bọn chúng xem chúng là ai và chúng chơi
trò này với tôi nhằm mục đích gì, nếu đó quả là
một trò đùa. Một trò đùa khá tốn kém với bọn chúng,
vì chúng phải trả những ba mươi hai bảng.
- Chúng tôi sẽ cố làm sáng tỏ những điểm ông
vừa nhắc. Nhưng trước hết, tôi muốn hỏi ông vài
câu, ông Wilson. Anh chàng giúp việc của ông,
người đầu tiên lưu ý ông về mẩu quảng cáo kia,
làm việc cho ông đã bao lâu rồi?
- Trước đó khoảng một tháng.
- Hắn đến với ông như thế nào?
- Theo lời quảng cáo tôi cho đăng trên báo.
- Chỉ một mình hắn đến hay còn có thêm ai khác?
- Không, có khoảng một tá đến dự tuyển.
- Tại sao ông chọn hắn?
- Vì hắn năng nổ và không đòi hỏi nhiều.
- Thực sự, chỉ đòi phân nửa số lương phải không?
- Vâng.
- Tướng mạo hắn thế nào, cái gã Vincent Spaulding
ấy?
- Thấp, mập, rất nhanh nhẹn, không có râu, tuy
tuổi khoảng ba mươi. Trên trán có một vết sẹo
trắng.
Holmes ngồi bật dậy, vẻ rất kích động.
- Tôi cũng đoán vậy. - anh nói - trên dái tai
hắn ông có thấy hai lỗ đeo hoa tai không?
- có, thưa ông. Hắn bảo tôi một bà di gan đã
xỏ cho hắn khi hắn còn trẻ.
- Thôi được rồi, ông Wilson. Vài ngày nữa, tôi
sẽ rất sung sướng, báo cho ông biết kết quả vụ
này. Hôm nay là thứ Bảy, tôi hy vọng đến thứ Hai
chúng tôi sẽ có kết luận.
Khi ông thân chủ đã ra về, Holmes liền thu người
lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu gần
chạm mũi. Anh ngồi ở tư thế đó hồi lâu, mắt lim
dim, chiếc tẩu bằng đấu nung màu đen nhô ra phía
trước, trông tựa cái mỏ của một giống chim kỳ
lạ. Tôi đã tưởng anh ngủ thiếp đi thì thình lình
anh chồm dậy, dáng điệu như thể một người vừa
nảy ra một quyết định, và đặt chiếc tẩu lên mặt
lò.
Chiều nay có một buổi hoà nhạc tại St James’s
Hall. - anh thốt lên. Anh nghĩ sao, Watson? Bệnh
nhân của anh có thể vui lòng buông tha anh trong
vài giờ được không?
- Hôm nay tôi chẳng có gì phải làm. Công việc
của tôi không bao giờ khiến tôi phải miệt mài
cả ngày trong phòng khám.
- Vậy thì anh đội mũ vào, rồi ta đi thôi. Trước
tiên, tôi phải đến khu City. Rồi sau đó, trên
đường về, ta có thể ghé vào một cửa hiệu nào đó
ăn chiều. Nào, ta lên đường thôi!
Chúng tôi đáp tàu điện ngầm đến tận Aldersgate,
rồi đi bộ một quãng tới Coburg Square, nơi diễn
ra câu chuyện kỳ dị mà chúng tôi vừa được nghe
kể ban sáng. Một tấm biển hiệu màu nâu, kẻ hai
chữ “JABEZ WILSON” bằng sơn trắng, treo ở góc
nhà cho biết đó là cơ ngơi hành nghề của ông thân
chủ tóc hung đỏ của chúng tôi. Holmes dừng lại
ngay trước cửa hiệu, nghiêng đầu ngắm nghía mọi
thứ, mắt sáng quắc. Rồi anh thong thả đi đi lại
lại trên đường, sau đó vòng xuống tận góc phố,
mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà. Cuối
cùng, anh quay lại trước cửa hiệu. Anh dùng đầu
gậy nện mạnh hai ba lần xuống vỉa hè, rồi tiến
thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa. Cánh cửa mở toang
ngay và trong khung cửa hiện ra một chàng trai
mặt mũi sáng sủa lên tiếng mời mọc.
- Cảm ơn - Holmes nói. Tôi chỉ muốn nhờ anh chỉ
giúp đường đến Strand.
- Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, đến ngã tư thứ tư
thì rẽ trái, gã giúp việc của ông Wilson vừa đáp,
vừa đóng chặt cửa lại.
- Quả là một gã ranh mãnh, Holmes nhận xét khi
chúng tôi quay ra. Theo tôi xét đoán, hắn là tay
ranh mãnh đứng hàng thứ tư ở Luân Đôn này, và
có lẽ đứng hàng thứ ba về mặt liều lĩnh. Tôi đã
biết ít nhiều về hắn!
Rõ ràng là gã giúp việc của ông Wilson đã đóng
một vai trò đáng kể trong vụ làm ăn bí ẩn của
Hội Tóc Hung - tôi nói. Tôi tin chắc việc anh
hỏi đường chỉ là cái cớ để nhìn mặt hắn.
- Không phải đâu.
- Vậy anh muốn xem gì?
- ống quần hắn, nơi hai đầu gối.
- Thế anh thấy được những gì?
- Thấy cái mà toi mong đợi nơi hắn ta.
- Vậy tại sao anh gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè?
- Bác sĩ thân mến ơi, đây là lúc để quan sát,
chứ không phải để trò chuyện. Ta đã biết được
ít nhiều về Coburg Square. Giờ ta phải tìm kiếm
những ngõ ngách nằm sau lưng nó.
Con đường mà chúng tôi vừa đặt chân tới sau khi
đi vòng qua góc quảng trường Coburg Square là
một trong những trục giao thông huyết mạch nối
liền khu City với hai phần thuộc mạn phía Bắc
và Tây của kinh thành. Khó mà hình dung nổi những
dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi
đang nhìn thấy trước mắt lại chính là mặt sau
của cái quảng cáo ảm đạm mà chúng tôi vừa mới
ghé qua.
- Để tôi ngắm một chút nhé - Holmes nói khi dừng
lại góc đường và đưa mắt nhìn dọc con đường. Tôi
muốn ghi nhớ thứ tự các toà nhà ở đây. Tìm hiểu
tường tận Luân dôn là một thú vui của tôi. Đầu
tiên là cửa hiệu thuốc lá Mortimer, kế đến là
một sạp báo nhỏ, rồi chi nhánh Coburg của ngân
hàng thành phố và các Vùng phụ cận. Chỗ này ăn
thẳng sang lô nhà phía bên kia. Anh Watson, thế
là chúng ta đã xong việc. Bây giờ chúng ta được
quyền thư giãn đầu óc trong chốc lát. Một khoanh
sandwich, một tách cà phê, rồi sau đó ta đến dự
buổi hoà nhạc, nơi mà chẳng một thân chủ tóc hung
nào có thể quấy rầy chúng ta bằng những vụ rắc
rối điên đầu.
Bạn tôi say mê âm nhạc, vì anh vốn là người chơi
nhạc và cũng là một nhạc sĩ có tài. Suốt buổi
chiều hôm đó, anh ngồi trong phòng hoà nhạc, tận
hưởng một niềm hạnh phúc tột đỉnh và khẽ đánh
nhịp bằng mấy ngón tay dài khẳng khiu theo các
tiết tấu được nghe.
- Chắc anh đang muốn về ngay, phải không bác
sĩ? - Holmes nói khi chúng tôi vừa rời khỏi phòng
hoà nhạc.
- Vâng, tôi muốn về.
- Còn tôi, tôi phải làm nốt một số việc, mất
khoảng vài tiếng nữa. Vụ Coburg Square quả là
một vụ nghiêm trọng.
- Thật vậy sao?
- Đây là một vụ phạm tội qui mô có mưu tính trước.
Tôi có đủ lý do để tin chắc chúng ta còn kịp ngăn
chận. Tôi mong anh vui lòng giúp tôi tối nay.
- Vào lúc mấy giờ?
- Từ mười giờ tối là vừa. Watson ạ, vụ này e
nguy hiểm, nên xin anh bỏ túi khẩu súng nhà binh
của anh. - Holmes vẫy tay tạm biệt, rồi quay đi
và mất hút ngay trong đám đông.
Tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình thật khù
khờ mỗi lần cộng tác với Sherlock Holmes. Tôi
cũng nghe rõ những gì anh nghe thấy và cũng nhìn
rõ những gì anh nhìn thấy. Nhưng qua lời anh tôi
hiểu rằng anh không chỉ thấy được những gì đã
xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp tới,
trong khi dưới mắt tôi toàn bộ nội vụ vẫn chỉ
là một mớ bòng bong.
Tối hôm đó, vừa đặt chân vào phòng Holmes, tôi
thấy anh đang sôi nổi trò chuyện với hai người,
mà một thì tôi nhận ra ngay - đó là Peter Jones,
một thám tử của sở cảnh sát. Còn người kia thì
cao gầy, nét mặt buồn bã, đầu đội một chiếc mũ
bóng loáng.
- Ra, vậy là đủ mặt cả rồi - Holmes vừa nói vừa
cài khuy chiếc áo vét, rồi với tay lên giá lấy
chiếc gậy nặng trịch xuống - Anh Watson, tôi nghĩ
chắc anh đã biết ông Jones, đằng Scotland yard?
Vậy chỉ xin giới thiệu với anh: đây là ông Merryweather,
một cộng sự của chúng ta trong cuộc phiêu lưu
tối nay. Với ông, ông Meryweatherr, món tiền đặt
cọc cho cuộc chơi tối nay là ba mươi ngàn bảng.
Còn với ông, ông Jones, đó sẽ là gã phạm mà từ
lâu ông vẫn ước ao tóm cổ.
- Vâng, đó là John Clay, một tên giết người kiêm
trộm cắp. Gã còn trẻ, ông Merryweatherr ạ, nhưng
là tay rất sừng sỏ trong nghề. Tôi muốn bắt gã
hơn bất cứ tên tội phạm nào ở Luân Đôn. Một nhân
viên rất đáng chú ý, cái gã John Clay trai trẻ
ấy. Đầu óc hắn cũng tinh quái như đôi bàn tay
hắn vậy, nên tuy chúng tôi đã phát hiện được dấu
tích hắn để lại khắp nơi, chúng tôi vẫn không
biết tìm hắn ở đâu. Tôi đã theo dõi hắn nhiều
năm rồi, nhưng chưa bao giờ đựơc nhìn thấy hắn
tận mắt.
- Hy vọng rằng tối nay tôi sẽ có thể có hân hạnh
đựoc giới thiệu hắn với ông. Tôi cũng đã một vai
lần được nhìn thấy chiến công của cái gã John
Clay này, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng
hắn quả là một tay cao thủ trong nghề. Nhưng kìa,
đã hơn mười giờ rồi, ta phải lên đường thôi. Nếu
hai ông lên chiếc xe đầu, thì Watson và tôi sẽ
theo sau trên chiếc xe thứ hai.
Trên đoạn đường dài, Holmes rất ít nói. Xe chúng
tôi lăn bánh trên những dãy phố dài bất tận cho
tới lúc đổ ra đường Farringdon Street.
- Sắp đến nơi rồi - bạn tôi nói. Tay Merryweather
kia là một Giám đốc nhà băng và có liên quan trực
tiếp dến vụ này. Tôi nghĩ Jones cũng rất cần cho
chúng ta. Ta xuống đây thôi, họ đang chờ chúng
ta kia kìa.
Chúng tôi đặt chân xuống chính khúc đường vốn
tập nập mà chúng tôi vừa tới hồi sáng. Theo chân
Merryweather, ba chúng tôi băng qua một con hẻm
hẹp, rồi theo một cánh cửa hông đã mở sẵn để đón
chúng tôi, đi vào nhà. Bên ngoài cánh cửa là một
dải hành lang ngắn, dẫn thẳng tới một cái cổng
sắt đồ sộ. Cánh cổng cũng đã mở sẵn, và chúng
tôi lần bước trên những bậc cầu thang xoắn bằng
đá, dẫn xuống một cái cổng đồ sộ nữa. Ông Merryweather
dừng lại, châm đèn, xong dẫn chúng tôi xuống một
lối đi tối om, sực mùi đất ẩm, rồi ông mở tiếp
cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi xuống một căn nhà
hầm rất rộng. Xung quanh, chúng tôi thấy chất
đống hàng dãy thùng gỗ và hòm lớn.
- Từ phía trên ông rất an toàn - Holmes vừa nhận
xét, vừa giơ cao ngọn đèn lồng, đưa mắt nhìn quanh.
- Cả từ phía dưới cũng thế - ông Merrywether
vừa nói vừa gõ gõ đầu gậy xuống mặt sàn bằng đá.
- Trời ơi, sao nghe như trống rỗng thế này! -
ông ngước mắt, kinh ngạc thốt lên.
- Tôi buộc phải yêu cầu ông nói nhỏ hơn một chút,
Holmes nghiêm nghị nói. - Nếu không chúng ta sẽ
có nguy cơ chẳng gặt hái được gì trong chuyến
phiêu lưu này. Xin qúi ông làm ơn ngồi xuống mấy
cái thùng kia và đừng can thiệp vào công việc
của tôi.
Ông Merryweather liền ngồi ngay xuống một cái
thùng gỗ, vẻ mặt rất phật ý. Holmes quì xuống
dười sàn và dùng chiếc đèn lồng bắt đầu xem xét
cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau anh đã mãn
nguyện ngay vì tôi thấy anh đã đứng bật dậy.
- Chúng ta phải chờ ít nhất một tiếng nữa - anh
nói - Vì bọn chúng khó có thể làm gì trước khi
ông chủ hiệu cầm đồ ngủ yên. Bấy giờ, chúng sẽ
không bỏ lỡ lấy một phút, vì công việc càng xong
sớm, chúng sẽ càng có nhiều thì giờ để chạy trốn.
Anh Watson, chắc anh đã đoán được hiện nay, chúng
ta đang ở dưới tầng hầm Chi nhánh City của một
trong những nhà ngân hàng chủ chốt ở Luân Đôn.
Ông Merryweather đây là chủ tịch ban Giám đốc.
Ông ấy sẽ giải thích cho anh rõ rằng lúc này bọn
tội phạm táo tợn nhất của thành Luân Đôn có những
lý do để quan tâm nhiều đến căn nhà hầm này.
- Chúng tôi hiện cất giữ tại đây toàn bộ số vàng
Pháp mà ngân hàng đã vay được- ông Giám đốc khẽ
nói.
- Vàng Pháp của các ông?
- Vâng. Cách đây vài tháng chúng tôi có vay của
Ngân hàng pháp Quốc một số vàng trị giá ba mươi
ngàn bảng. Ai cũng biết là chúng tôi chưa bao
giờ khui số vàng ấy ra, và cho tới bây giờ mấy
thùng vàng đó vẫn còn nằm nguyên ở đây, tại căn
hầm này. Cái thùng tôi đang ngồi này đựng một
số vàng trị giá tới hai ngàn bảng Anh. Nghĩa là
nhiều hơn rất nhiều so với mức bình thừơng tại
một văn phòng của một chi nhánh nhỏ, và các viên
Giám đốc đều đã có những mối nghi ngờ về chuyện
này.
- Họ nghi ngờ là rất phải - Holmes nhận xét -
và bây giờ đã đến lúc chúng ta phải trù liệu những
gì cần làm để hoàn tất cái kế hoạch nhỏ của ta.
Tôi hy vọng trong khoảng một giờ nữa, mọi chuyện
sẽ kết thúc. Trong thời gian đó, ông Meryweather
ạ, chúng ta phải che tạm ngọn đèn lại.
- Vậy là phải ngồi trong bóng tối?
- Tôi e rằng đành phải thế thôi. Tôi thấy đối
thủ của chúng ta đã chuẩn bị rất kỹ lưỡng, nên
ta không thể liều lĩnh để cho chúng thấy dưới
này có ánh sáng.
Và trước nhất, chúng ta phải chọn cho mỗi người
một vị trí thuận lợi để ra tay. Bọn này rất táo
tợn, nên chúng ta có lợi thế hơn, chúng vẫn có
thể gây tổn hại cho chúng ta, nếu ta không cẩn
thận. Tôi sẽ đứng nép sau cái thùng này; còn các
ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu
đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau lẹ bắt lấy
chúng. Nếu chúng nổ súng thì Watson, anh hãy bắn
hạ chúng.
- Bọn chúng chỉ còn một lối thoát - Holmes nói
khẽ - Đó là lui về căn nhà trên Coburg Square.
Ông Jones, tôi hy vọng chắc ông dã làm đúng những
gì tôi yêu cầu?
- Toi đã cho một viên thanh tra và hai cảnh sát
mai phục ở cửa trước hiệu cầm đồ.
- Vậy là chúng ta đã chặn hết tất cả các lối
ra và giờ, chỉ còn phải ngồi im đợi chúng nữa
thôi.
Thời gian như thể ngừng trôi! Lúc này mới có
một giờ mười lăm phút, thế mà tôi có cảm giác
như đêm đã sắp tàn và trời đang rạng sáng. Từ
chỗ nấp, tôi có thể nhìn bao quát cả sàn hầm.
Bỗng mắt tôi nhìn thấy một ánh đèn.
Mới đầu, đó chỉ là một tia sáng nhỏ trên mặt
đá. Về sau, tia sáng cứ dài dần cho tới lúc trở
thành một vệt vàng, rồi bất thần, không hề gây
tiếng động, khe hở trên mặt sàn như mở rộng ra
thành một lỗ hổng. Một bàn tay hiện ra, trắng
trẻo như tay phụ nữ, sờ soạng ở phía giữa quầng
sáng nhỏ. Rồi một trong những phiến đá rộng, màu
trắng, bị lật sang bên, phát ra một tiếng động
ngắn, và một lỗ hổng trắng hoác hình vuông xuất
hiện, khiến một dòng ánh sáng từ một ngòn đèn
lồng tuôn vào căn hầm. Qua cái lỗ hổng đó, một
gương mặt rất trẻ con từ từ nhô lên, đưa cặp mắt
dò xét nhòm quanh. Sau đó gã nọ vươn dần người
lên cho tới lúc tỳ được gối vào mép lỗ. Chỉ một
khoảnh khắc sau, hắn đã đứng bên mép lỗ, và đưa
bàn tay ra, kéo tên đồng bọn lên theo, một gã
cũng thấp như hắn, mặt mũi xanh xao mái tóc hung
đỏ rực như lửa.
- ổn rồi - hắn thì thầm. Mày có mang theo mấy
cái bao không? Thế là đại thắng! Nhảy đi, archie,
nhảy đi!
Holmes lao ra, tóm chặt cổ áo gã mới đột nhập
đó. Gã kia tụt vội xuống cái lỗ hổng nọ, và tôi
nghe thấy tiếng vải rách soạt khi Jones túm lấy
chiếc áo khoác của hắn. ánh đèn rọi thẳng vào
khẩu súng ngắn hắn cầm, nhưng chiếc gậy của Holmes
đã giáng mạnh vào cổ tay hắn, khiến khẩu súng
rời xuống mặt sàn đá.
- Vô ích thôi, John Clay - Holmes nói. Anh chẳng
còn một cơ may nào nữa đâu.
- Ta biết - gã đáp, giọng ráo hoảnh - Nhưng ta
tin bạn ta đã thoát, tuy ta thấy anh đã vớ được
chiếc áo choàng của cậu ta.
- Có ba người đợi hắn ngoài cửa đấy - Holmes
nói.
- à, ra thế. Xem ra anh đã tính đâu vào đấy rồi
nhỉ. Khá khen cho anh.
- Cả cho anh nữa. Holmes đáp - ý đồ lập Hội Tóc
Đỏ của anh quả rất tân kỳ và hữu hiệu.
John Clay nghiêng mình chào một vòng cả ba chúng
tôi, rồi lặng lẽ theo sau viên thám tử, đi.
- Watson, anh thấy không? Holmes giảng giải khi
chúng tôi ngồi bên cốc whisky tại Baker Street.
- Ngay từ đầu, tôi đã thấy rõ ràng mục đích duy
nhất của cái Hội nọ là điệu ông chủ hiệu cầm đồ
ra khỏi nhà mình hàng ngày trong nhiều giờ. Cái
biện pháp chọn quả có kỳ quặc thật, nhưng quả
tình cũng khó tìm được một cách nào tốt hơn. Ngón
này rõ ràng là do cái trí tuệ của Clay nghĩ ra
nhờ mái tóc đỏ rực của tên đồng bọn gợi ý. Bốn
bảng mỗi tuần là một miếng mồi hết sức cám dỗ
đối với ông chủ hiệu, nhưng có đáng là bao khi
bọn chúng tính chuyện vớ được hàng ngàn? Chúng
cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo đã thuê
tạm một văn phòng; còn gã kia khuyến khích ông
chủ mình nộp đơn, và cả hai cùng nhau tìm cách
làm sao cho ông ta chắc chắn vắng nhà tất cả các
buổi sáng trong nhiều tuần lễ. Chỉ cần thoáng
nghe câu chuyện là hắn chỉ xin giúp việc với phân
nửa số lương, tôi đã hiểu ngay: hắn phải có một
động cơ mạnh mẽ nào đó thôi thúc hắn chịu làm
với đồng lương như thế!
- Nhưng bằng cách nào mà anh đoán được động cơ
của bọn chúng?
- Công việc làm ăn của ông thân chủ chúng ta
chẳng lời lãi bao nhiêu, nên trong nhà ông ta
chẳng có món gì đang giá để chúng phải trù tính
việc này, việc kia và chi tiêu tốn kém như vậy
cả. Vì thế, rõ ràng là cái mà chúng đi tìm phải
ở chỗ khác kia. Nhưng đó là cái gì? Tôi nghĩ tới
cái thói hay chụp ảnh của gã giúp việc cho ông
ấy và cái thói quen chui xuống căn hầm của gã.
Tầng hầm! Chìa hoá của mọi chuyện đây rồi. Tôi
liền dò tìm lai lịch gã giúp việc bí ẩn nọ, và
phát hiện ra rằng mình đang đối mặt với một trong
những tên tội phạm nhẫn tâm nhất và táo tợn nhất
thành Luân đôn. Hắn đang làm gì đó dưới tầng hầm
- một công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và
phải làm mấy tháng mới xong. Việc gì nhỉ? Tôi
nghĩ: đó chỉ có thể là việc đào một đường hầm
để đột nhập vào một toà nhà.
-Đó là những điều mà tôi đã suy ra được khi dến
thăm hiện trường. Tôi đã làm anh ngạc nhiên khi
gõ gõ đầu gậy xuống vỉa hè. Tôi muốn biết tầng
hầm đó dẫn ra phía trước hay phía sau. Không phải
phía trước. Thế là tôi giật chuông gọi cửa, và
gã giúp việc nọ đã ra mở ngay, đúng như tôi hy
vọng. Tôi hầu như không nhìn vào mặt hắn, hai
đầu gối hắn mới đang nhìn. Chắc anh cũng đã nhìn
thấy tận mắt: cả hai ống quần hắn đều sờn nhàu
và nhèm nhuốc nơi hai đầu gói. Đó là vết tích
của bấy nhiêu giờ đào bới. Bấy giờ chỉ còn một
điểm chưa rõ: con đường đó dẫn đến đâu? Tôi vòng
ra góc quảng trường thì thấy ngân hàng City và
Ngoài thành với cửa hiệu cầm đồ kia đấu lưng vào
nhau. Tôi cảm thấy mình đã gửi xong bài toán.
Khi anh ra về sau buổi hoà nhạc, tôi ghé đến Scotland
yard, rồi đi gặp ông chủ tịch ban Giám đốc của
ngân hàng nọ, và tôi đã gặt hái được kết quả như
chính anh đã thấy đấy.
- Nhưng anh làm cách nào mà đoán được rằng đêm
nay chúng sẽ hành động? - tôi hỏi.
- ấy, khi chúng đóng cửa văn phòng của Hội thì
cũng chính là lúc chúng không còn lo nghĩ gì nữa
tới chuyện ông Jabez Wilson đi vắng hay ở nhà.
Nói cách khác, chúng đã đào xong con đường hầm
kia. Nhưng cái chính là chúng phải sử dụng sớm
thành quả đó, vì chúng sợ có thể bị phát hiện
hoặc ngân hàng sẽ chuyển chỗ vàng kia đi nơi khác.
Thứ bảy là dịp thuận tiện cho chúng hơn bất kỳ
ngày nào khác, vì chúng sẽ có tới hai ngày để
tẩu thoát. Vì tất cả những lý do đó, tôi dự kiến
chúng sẽ hành động ngay đêm nay.
- Cách suy lụân của anh thật tài tình, - tôi
thán phục reo lên.
- Nó chỉ cứu tôi ra khỏi cảnh buồn chán thôi
- anh vừa đáp, vừa ngáp dài.
Hết