Ngày
14 tháng 4 năm 1887 tôi nhận được một bức điện gửi
từ Lyon báo tin Holmes bị ngã bệnh, phải nằm liệt
giừơng ở khách sạn Dulong. Trong vòng 24 giờ, tôi
đã sang nước Pháp, tới tận bên giường anh và thấy
bệnh không trầm trọng. Thể trạng anh cứng cáp như
sắt thép nhưng cũng không chịu nổi trước một cuộc
điều tra kéo dài hai tháng; trong thời gian đó,
mỗi ngày anh phải làm việc trên mười lăm tiếng đồng
hồ: anh còn xác nhận là có lúc anh không được nghỉ
ngơi lấy một tiếng đồng hồ trong năm ngày liên tiếp.
Ba ngày sau đó, chúng tôi quay về nhà ở đường
Baker. Nhưng đại tá Ha-tô, người bạn thân mà tôi
đã chăm sóc bên xứ Atghanistan, đã tậu được một
ngôi nhà ở gần Reigate, trong hạt Surrey, và ông
thường mời tôi và Holmes tới đó để đổi gió. Khi
Holmes được biết đại tá là người độc thân thì
anh liền đồng ý. Thế là, một tuần sau ngày trở
về Luân Đôn, chúng tôi tới nhà đại tá Ha-tô.
Buổi tối hôm đến nơi, chúng tôi quây quần trong
phòng trưng bày vũ khí. Holmes nằm dài trên ghế
trường kỷ, trong lúc Ha-tô và tôi xem bộ sưu tập
súng. Đại tá nói:
- Nhân đây, tôi sẽ đem lên lầu một trong những
khẩu súng lục này để phòng ngừa trường hợp chúng
ta cần báo động.
- Báo động ư? - Tôi kêu lên.
- Phải, mới đây ông già ất- tân đã bị trộm tới
viếng đêm thứ hai tuần qua. Thiệt hại thì không
đáng kể, nhưng tên trộm vẫn chưa bị bắt.
- Không có hướng điều tra nào sao? - Holmes hỏi,
liếc nhìn ông đại tá.
- Cho tới nay thì không. Nhưng đây là một vụ
đáng kể, một vụ trộm vặt ở thôn quê, hoàn toàn
không đáng làm cho ông phải bận tâm sau cái vụ
quốc tế lớn lao kia.
Holmes khua tay như gạt bỏ lời khen ngợi, nhưng
nụ cười của anh lại chứng tỏ là anh lấy thế làm
khoái chí.
- Không có chi tiết đặc trưng nào sao?
- Không. Bọn trọm đã lục tung cái thư viện. Tất
cả căn phòng đã bị đảo lộn tùng phéo, các ngăn
kéo bị mở tung, giấy tờ bị ném tung toé. Các món
bị mất chỉ có: một cuốn sách, hai cây đèn nến
bọc quý kim, một phong vũ biểu nhỏ bằng gỗ sồi
và một cuốn dây mảnh.
- Một lô hàng kỳ lạ! - Tôi thì thầm.
- ồ, hiển nhiên là bọn trộm đã vội quơ lấy những
gì mà chúng có thể mang theo.
Trên ghế trường kỷ, Holmes buông ra một tiếng
làu bàu:
- Cảnh sát địa phương hẳn rút ra một điều gì
đó chứ! Coi nào, thật rõ ràng là...
Nhưng tôi giơ một ngón tay lên:
- Anh tới đây là để nghỉ ngơi, anh chớ có lao
mình vào một vấn đề nào, trong lúc hệ thần kinh
còn đang rã rời.
Holmes nhún vai, ném về phía ông đại tá một tia
nhìn mang dấu cam chịu rồi câu chuyện chuyển sang
những đề tài bớt nguy hiểm hơn.
Tuy nhiên chúng tôi đang dùng điểm tâm thì người
quản gia của đại tá ùa vào trong phòng.
- Ông đã hay tin gì chưa? thưa ông?... ở đằng
nhà cụ Cung-ninh đó, thưa ông!
Ông đại tá bất động với tách cà phê trong tay,
lơ lửng giữa mặt bàn và miệng ông.
- Trộm à?
- Một vụ giết người!
Ông đại tác nghiến răng và rít lên:
- Mẹ kiếp! Ai bị giết? Ông toà hoà giải hay là
con ông ta.
- Gã đánh xe ngựa. Một phát trúng tim. Chết mà
chẳng nói lấy nửa lời.
- Ai đã giết anh ta?
- Kẻ trộm. Hắn đã biến mất. Hắn vừa bẻ gãy cửa
sổ gian bếp phụ thì Uyn-li tới đó. Uyn-li đã mất
mạng khi bảo vệ của cải cho chủ mình.
- Lúc đó là mấy giờ?
- Vào khoảng nửa đêm.
- Tốt. Lát nữa, chúng tôi sẽ tới đó. - Ông nói
với giọng rất thản nhiên.
Ông chờ cho người quản gia ra khỏi phòng rồi
mới nói thêm:
- Chuyện tồi tệ! Ông già Cung-ninh là một nhân
vật rất có thế lực ở đây, hơn nữa, ông là một
người trung hậu. Ông sẽ đau khổ, bởi vì người
đánh xe là một người đầy tớ rất tốt. Chắc là cũng
cùng những tên trộm cướp đã tới viếng nhà ất-tân.
- Và là kẻ đã ăn trộm cái sưu tập quá đặc biệt
đó ư? - Holmes hỏi với vẻ ngẫm nghĩ.
- Đúng vậy.
- Hừm!
Thoạt nhìn sự việc ra vẻ kỳ cục. Thông thường
một băng trộm cắp hoạt động tại một vùng không
hề thực hiện hai lần trong cùng một thành phố,
cách nhau có vài ngày. Tối qua, khi ông nói cần
đề phòng, tôi đã nghĩ rằng Riegate là giáo khu
sau chót ở nước Anh bị bọn trộm để ý tới.
- Nếu vấn đề là do một tên chuyên nghiệp ở địa
phương thì hiển nhiên hai gia đình ất - tân và
Cung - ninh là những nhà lớn nhất trong xứ này
mà.
- Và là những nhà giàu có nhất chứ?
- Họ giàu từ trước, song từ nhiều năm qua, chủ
nhân của cả hai nhà đã dấn vào một cuộc tranh
tụng kéo dài và nay họ bị sạt nghiệp, ấy là theo
ý tôi. Ông già ất - tân hiện đòi lại phần nửa
cơ nghiệp của nhà Cung - ninh. ở cả hai bên, các
luật gia đều đòi thù lao thật đắt...
- ” Nếu là một tên vô lại ở trong vùng lân cận,
hẳn người ta sẽ tóm cổ hắn dễ dàng“. Holmes nói,
cố nén một tiếng ngáp. ”Anh đừng có lo sợ, anh
Watson! Tôi chẳng can thiệp vào chuyện này đâu.
- Thanh tra Phê-rô đến, thưa ông!- người quản
gia loan báo khi mở cửa ra.
Người đại diện của cảnh sát còn rất trẻ, trông
có vẻ đàng hoàng, bước vào trong phòng.
- Xin chào, thưa đại tá. Tôi hy vọng làm phiền
đại tá? Nhưng chúng tôi được biết là ông Holmes
đang có mặt nơi đây...
Ông đại tá chỉ vào bạn tôi. Viên thanh tra nghiêng
mình chào.
- Thưa ông Holmes, chúng tôi mong rằng ông sẵn
lòng cùng đi ít bước với tôi.
- ”Số mệnh đã chống lại anh rồi, Watson ơi“!
Holmes vừa kêu lên vừa cười. ”chúng tôi đang bàn
luận về vụ án thì ông tới đó, ông thanh tra. Ông
có thể cho chúng tôi biết vài chi tiết không?
Khi tôi thấy Holmes ngồi ngả vào thành ghế dựa
với một trong những tư thế được anh ưa thích thì
tôi thất vọng.
- Chúng tôi không có một dấu vết nào trong vụ
ất-tân. Nhưng chắc chắn là cả hai vụ đều do cùng
một băng nhóm gây ra. Người phạm tội đã bị nhận
diện.
- A!
- Vâng, nhưng hắn chuồn đi như một cơn gió, sau
khi dã nổ súng vào Uyn-li. Cung-ninh đã trông
thấy y từ cửa sổ phòng cụ và ông A-léc cũng đã
trông thấy từ cánh cửa sau, dành cho người giúp
việc. Hồi 23 giờ 45 phút thì có tiếng báo động.
Cụ Cung-ninh vừa vào giường, còn A-léc thì đang
hút thuốc. Cả hai đều nghe tiếng anh Uyn-li kêu
cứu. Ông A-léc chạy vội xuống. Cánh cửa sau mở
rộng. Khi tới chân cầu thang, ông thấy bên ngoài
có hai người đang đánh nhau. Một trong hai người
nổ một phát súng, người kia gục xuống, kẻ sát
nhân nhảy bổ ra vườn và leo vượt hàng rào. Cụ
Cung-ninh từ khuôn cửa sổ phòng mình, cũng thấy
tên cướp nhảy ra tới đường, và mất dạng. Ông A-léc
đứng lại để xem có thể cứu giúp gì được cho người
hấp hối, khiến cho kẻ sát nhân có thời giờ trốn
thoát. Ngoài chi tiết hắn là người tầm thước và
mặc vải sẫm, chúng tôi không còn chỉ - dấu đặc
biệt nào khác.
- Anh chàng Uyn-li làm gì tại đó? Anh ta nói
được điều gì trước khi chết không?
- Không một lời. Anh ta ở cùng với bà mẹ trong
nhà người gác cổng, đó là một người giúp việc
tận tuỵ; có lẽ anh đã đi về phía ngôi nhà để xem
mọi việc có bình thường không. Khi tên trộm vừa
chạy phiá xong cánh cửa sau, thì Uyn-li nhào lên
người hắn.
- Uyn-li có nói gì với mẹ trước khi ra khỏi nhà
không?
- Bà mẹ rất già lại điếc. Không tài nào moi được
từ nơi bà một điều chỉ dẫn nào! Cái chết của con
trai đã quật sụp bà. Tuy nhiên, có một nguyên
tố cực kỳ quan trọng. Ông hãy coi đây!
Viên thanh tra rút ra từ cúon sổ tay một mảnh
giấy nhỏ bị rách và ông mở rộng ra trên đầu gối.
- Mẩu giấy này được tìm thấy giữa hai ngón tay
cái và ngón tay trỏ của nạn nhân. Dường như đây
là một góc của một tờ giấy lớn hơn. Con số ghi
trên mẩu giấy này là giờ mà Uyn-li bị hạ sát.
Kẻ sát nhân đã giật lấy phần còn lại của tờ giấy;
nếu không, Uyn-li đã có thể giành lấy nguyên vẹn
tờ giấy rồi:
- ” ... Vào lúc mười một giờ bốn mươi lăm phút...
sẽ được biết... nhiều ... rất hữu ích...“.
Holmes cầm lấy tờ giấy.
- ”Cứ cho đây là một cuộc hẹn“. Viên thanh tra
nói tiếp“ Chúng ta có thể ngờ rằng, gã Uyn li
mặc dù có tiếng là lương thiện, đã thông đồng
với tên trộm. Gã đã gặp tên trộm ở đó, hoặc đã
giúp tên trộm cạy cửa, rồi sau đó hai đứa gây
lộn với nhau...
- Miếng giấy này hữu ích biết bao“! Holmes thì
thầm sau khi quan sát nó rất kỹ, ”chúng ta bị
ngập sâu trong nước hơn là tôi tưởng“.
Anh vùi đầu trong hai bàn tay giữa lúc viên thanh
tra cười thoả mãn trước sự chú tâm của chuyên
gia nổi tiếng ở Luân đôn. Holmes nói ngay sau
đó:
- Điều nhận xét sau chót của ông thật là tài
tình, tờ giấy này mở cho chúng ta...
Lần nữa anh lại gục mặt vào trong lòng hai bàn
tay và anh khép kín mình trong vài phút vào tư
tưởng của anh. Khi anh ngửng đầu lên, tôi ngạc
nhiên thấy cặp mắt anh long lanh như trước những
ngày chưa bệnh. Anh nhảy cẫng lên với tất cả năng
lực cũ của mình:
- Tôi đang nói gì với ông nhỉ: tôi muốn xem xét
những chi tiết của vụ án. Nếu được ông cho phép,
thưa đại tá, tôi sẽ đi dạo một vòng cùng với ông
thanh tra để kiểm soát lại một vài ý nghĩ bông
lông của tôi. Tôi sẽ trở về trong nửa tiếng.
Một tiếng rưỡi đã trôi qua. Viên thanh tra quay
lại có một mình nói:
- Ông Holmes đang đi bách bộ ngoài đồng và muốn
chúng ta đi tới ngôi nhà.
- Tới nhà cụ Cung - ninh sao?
- Vâng, thưa ông.
- Để làm gì?
Viên thanh tra nhún vai.
- Tôi không biết. Giữa chúng ta với nhau, tôi
nghĩ rằng ông Holmes chưa được hoàn toàn bình
phục. Ông cư xử một cách kỳ lạ, sôi động.
- Ông không cần phải lo âu. Anh ấy luôn luôn
có phương pháp trong sự điên rồ - Tôi nói.
- Ông Holmes đầy nhiệt tình đòi đi, thưa đại
tá. Nếu hai vị sẵn sàng, chúng ta cũng nên đến
đó.
Chúng tôi gặp lại Holmes ngoài trời. Anh đi từng
bước dài trên đường, cằm gục xuống ngực, hai bàn
tay thọc sâu trong túi quần. Anh nói:
- Vụ án có tầm lợi ích đây. Anh Watson, chuyến
đi chơi vùng quê này sẽ là một thành công đáng
kể. Tôi đã hưởng một buổi sáng thú vị.
- Ông đã đi tới nơi xảy ra vụ án à? - Đại tá
hỏi.
- Phải. Ông thanh tra và tôi.
- Đưa tới thành công chứ?
- Quả vậy, chúng tôi đã thấy nhiều điều khác
nhau rất lý thú. Thoạt tiên, chúng tôi đã xem
thi hài của kẻ bất hạnh: anh ta chết vì một viên
đạn súng lục, như các anh đã được cho biết.
- Anh nghi ngờ chuyện đó sau?
- ồ, luôn luôn nên kiểm tra tất cả. Việc quan
sát của chúng tôi đã không vô ích. Sau đó chúng
tôi có trao đổi với cụ Cung - ninh và con trai
cụ. A-lec hướng dẫn chúng tôi tới nơi mà kẻ sát
nhân đã chuồn qua khi vượt hàng rào, trốn chạy.
Rất đáng quan tâm.
- Tất nhiên.
- Chúng tôi đã gặp bà mẹ đau khổ nhưng không
thu thập được điều gì. Bà đã quá yếu.
Và kết quả cuộc điều tra cho thấy là...
- ... tội ác này không tầm thường. Thưa ông thanh
tra, giờ đây chúng ta đã đồng ý với nhau về mẩu
giấy trên đó có viết giờ chết của nạn nhân?
- Mẩu giấy đó chẳng cho chúng ta một điều chỉ
dẫn, thưa ông Holmes.
- Nó cho chúng ta thấy rõ: người viết bức thư
đã lôi Uyn-li ra khỏi giừơng trong đêm hôm khuya
khoắt. Nhưng phần còn lại của tờ giấy hiện ở đâu?
- Tôi đã quan sát mặt đất rất kỹ với hy vọng
tìm ra mẩu giấy đó. - Viên thanh tra thì thào.
Mảnh giấy đã được giựt ra khỏi bàn tay người
chết. Bởi vì tờ giấy đã kết tội y nên y đã nhét
vội nó vào túi mà không hề để ý thấy một góc bị
thiếu. Nếu thu hồi được phần còn lại của tờ giấy,
thì chúng ta sẽ kết thúc vấn đề.
- Đúng. Nhưng phải làm thế nào bây giờ.
- Điều đó đáng tốn công. Còn một điểm này nữa.
Lá thư đã được gởi tới cho Uyn-li. Người viết
thư đã không tự mình trao cho người nhận; nếu
không, hắn dùng lời nói chứ viết thư làm gì. Vậy
ai đã chuyển bức thư? hoặc lá thư đã được gửi
tới qua đường bưu điện?
- ” Tôi đã cho điều tra về điểm đó“, - viên thanh
tra trả lời. ”Hôm qua Uyn-li có nhận được một
lá thư trong chuyến phát thư buổi chiều. Anh ta
huỷ cái bao thư“.
- ”Tuyệt vời!“ Holmes kêu lên khi vỗ lên lưng
viên thanh tra. ”Ông đã gặp nhân viên đưa thư.
Thật thích thú khi được làm việc chung với ông!
Tốt! Đây là nhà người gác cổng. Thưa đại tá, xin
cho phép tôi được chỉ cho ông thấy nơi xảy ra
tội ác.
- Chúng tôi đi ngang qua căn biệt thự nhỏ, nơi
người đánh xe đã ở và leo lên một lối đi vào hai
bên có trồng cây sồi, đưa tới một ngôi nhà cổ
kính.
Một cảnh sát viên đứng gác ở cửa sau.
- ”Xin ông vui lòng mở cửa ra“. Holmes nói.“Giờ
đây, các bạn trông thấy cái cầu thang này: chính
từ những bậc thang đó mà cụ Cung - ninh đã trông
thấy hai người vật lộn nhau tại nơi chúng ta đang
đứng. Ông cụ đứng ở cửa sổ này, cái thứ hai bên
tay trái, và cụ đã trông thấy kẻ sát nhân bỏ chạy
ngay bên trái bụi cây. A-léc cũng trông thấy y
nữa. Sau đó, A-léc đã chạy tới quỳ xuống bên người
bị thương. Nền đất rất rắn, như các bạn có thể
ghi nhận: không có dấu vết nào để hướng dẫn chúng
ta.
Trong lúc anh nói, có hai người đi xuống lối
vào vườn, sau khi đã đi vòng quanh nhà. Một người
lớn tuổi, có một cái đầu mạnh mẽ, nhưng có nét
nhăn sâu, mí mắt nặng trĩu. người kia là một thanh
niên lanh lợi.
- ”Thế nào, vẫn còn về việc đó à?“ Anh ta nói
với Holmes. ”những người từ Luân Đôn đến, phải
là những người không thể đánh bại. Nhưng quý vị
không tiến tới được bao nhiêu“.
- Cần phải cho chúng tôi một ít thì giờ. - Holmes
trả lời bằng một giọng vui vẻ hồn nhiên.
- Quý vị sẽ cần nhiều thời giờ nữa đây!“ A-léc
nói dõng dạc. ”Dường như chúng ta không có một
chỉ dẫn nhỏ nhoi nào“.
- ”Mỗi một“, viên thanh tra trả lời, ”chúng ta
sẽ tìm thấy... Lạy chúa tôi! Này ông Holmes, ông
làm sao vậy? Ông Holmes!“.
Bộ mặt Holmes có một dáng vẻ đáng ghê sợ. Mắt
anh đảo lộn tròng, nét mặt bị cơn đau làm cho
quặn lại, khi buông ra một tiếng rên rỉ, anh té
lăn xuống đất. Hoảng hốt, chúng tôi khiêng anh
vào trong bếp, đặt anh vào một ghế bành rộng và
anh ngồi đó thở nặng nề trong vài phút. Cuối cùng,
sau khi đã cáo lỗi về sự yếu đuối của mình, anh
lại đứng lên, nói:
- Tôi vừa mới qua một cơn bệnh nặng. Tôi vẫn
còn dễ bị những cơn cấp phát thần kinh đột ngột
đó.
- Ông muốn về nhà bằng cỗ xe độc mã của tôi không?
- Cụ Cung - ninh đề nghị.
(Hết Phần 1 ... Xin xem tiếp Phần
2)