Ba thầy trò đương đọc bài kệ, xảy nghe trong
rừng có tiếng kêu lớn rằng:
- Sư phụôi! Cứu tôi với! Từ rày sắp ới tôi không dám nữa đâu .
Tam Tạng hỏi:
- Phải Ngộ Năng kêu đó phải không?
Sa Tăng thưa:
- Phải .
Hành Giả nói:
- Em đừng nói tới nó làm chi, chúng ta đi cho rãnh .
Tam Tạng nói:
- Tuy nó khờ dại mặc lòng, song vị tình Bồ Tát ngày xưa, cứu nó
một phen kẻotội nghiệp .
Sa Tăng gánh đồ, Hành Giả dắt ngựa. Ba thầy trò đồng vào rừng
kiếm.
Nói về thầy trò vào rừng, thấy Bát Giới bị trói dưới gốc cây,
kêu la vang rên siết!Hành Giả cười rằng:
- Chàng rễ ôi! Sao chừng nầy chưa dậy mà lạy thầy, và tạ mainhơn
trưởng tộc? Hỡi còn giả ngộ hay sao? Ủa! Nói vậy thì mẹ vợ với
vợ tróichàng rễ mà khảo đó chăng?
Bát Giới thấy Hành Giả kêu ngạo, thì hổ thẹn trăm bề! Ðau cho
mấy cũng không la,phải cắn răng mà chịu đỡ.
Sa Tăng thấy tội nghiệp quá, nên chẳng nỡ lòng, liền để gánh đồ,
lại mở dây choBát Giới.
Bát Giới hổ thẹn không dám ngó lên. Liền quỳ lạy thinh không,
chẳng biết ai màvái. Hành Giả hỏi:
- Ngươi biết vị nào hiện ra mà thử đó chăng?
Bát Giới nói:
- Tôi hôn mê bất tỉnh nên không biết ai .
Hành Giả đưa lá thiệp ra.
Bát Giới coi càng hổ thẹn.
Sa Tăng thấy Bát Giới mắc cỡ, nực cười nói cợt rằng:
- Nhị ca cũng khá lắm mới cảm động bốn vì Bồ Tát, giúp việc hôn
nhơn .
Bát Giới nói:
- Sư đệ đừng nhắc chuyện đó làm chi nữa. Từ nầy sắp tới chẳng
dám làm nhăn, cứquảy gánh theo thầy cho tới Phật .
Tam Tạng khen rằng:
- Nói như vậy mới phải .
Hành Giả thỉnh thầy lên ngựa, dắt ra đường cái đồng đi.
Ăn gió nằm mưa, trèo non lặn suối, xảy thấy hòn núi rất cao.
Thiệt là,
Hoa nở hoa tàn đầy đãnh núi,
Mây qua mây lại quảng đầu non.
Tam Tạng ngồi trên ngựa mừng rỡ nói rằng:
- Ðồ đệ, ta từ đi Tây Phương đến naythấy nhiều non nước, không
thấy núi nào cảnh tốt như vầy, có khi gần tới chùaLôi Âm. Phải
sửa sang cho đàng hoàng, mà ra mắt Phật Tổ .
Hành Giả cười rằng:
- Sửa soạn chi gấp vậy?
Sa Tăng hỏi:
- Thưa đại ca đây tới Tây độ còn cách bao xa?
Hành Giả nói:
- Kể từ Ðông Ðộ qua Tây độ cách mười muôn tám trăm dặm đường.
Nay đi mười phầnmới đặng một .
Bát Giới nói:
- Biết đi mấy năm cho tới .
Hành Giả nói:
- Ước sức hai em đi hơn mười mấy ngày cũng tới. Còn ta thì một
ngày vừa đi vừavề năm chục lần, mà mặt trời chưa lặn. Chớ như
thầy thì hết đợi hết trông!
Tam Tạng hỏi:
- Ngộ Không, ngươi nói ta đi mấy mươi năm mới tới?
Hành Giả nói:
- Thầy đi từ nhỏ cho tới già, già rồi trẻ lại một ngàn lần như
vậy cũng chưa tớiTây Phương. Phải chi thành tâm, ngó lại Tây
pương gần tới .
Sa Tăng nói:
- Chỗ nầy tuy không phải chùa Lôi Âm, song cũng chỗ thần tiên
chi đó?
Hành Giả nói:
- Phải. Ðây là non tiên cảnh thánh, chúng ta đi chậm chậm mà xem
hoa.
Nói về trong núi Vạn Thọ, có am Ngủ trang. Trong am ấy có một
ông tiên, tên làTrấn Nguơn Tử, hiệu riêng là Dữ Thế Ðồng Quân.
Trong vườn có một vật báu. Nguyêntrước khi mới có trời đất, thì
sanh ra cây nầy. Gọi rằng Thảo huờn đơn, lại kêulà nhơn sâm quả.
Ba ngàn năm mới nở bông, ba ngàn năm mới có trái, ba ngàn nămnữa
trái ấy mới chín cây. Gần cả muôn năm, mới có ba mươi trái. Hình
như con nítmới đẻ ba ngày, có đủ tay chân, ngủ quan không thiếu.
Nếu ai có phước, hửi mộtcái sống đặng ba trăm sáu mươi năm, ăn
đặng một trái thì sống bốn muôn bảy ngàntuổi.
Ngày kia Nguơn Thỉ thiên tôn mời Trấn Nguơn lên cung Di lạc mà
nghe giảng đạo.Các tiên nhóm lại rất đông. Còn Trấn Nguơn đại
tiên có bốn mươi tám người đệ tửtu luyện gần thành,đồng dắt theo
nghe giảng, để hai người ở lại coi động, là haiđứa học trò nhỏ
hơn hết, tên Minh Nguyệt với Thanh Phong.
Thanh Phong đã đặng một ngàn ba trăm hai mươi tuổi.
Minh Nguyệt mới một ngàn hai trăm tuổi mà thôi.
Khi Trấn Nguơn đại tiên gần đi có dặn rằng:
- Ta đi rồi ít ngày, có người quen của ta là Ðường Tam Tạng ghé
đây. Nguyên ởTrường An vâng lệnh đi thỉnh kinh Tây độ, đừng thấy
thầy sãi mà đem dạ dễ ngươi.Phải hái trái nhơn sâm mà đãi Tam
Tạng .
Hai đạo đồng thưa rằng:
- Người không đồng đạo thì chẳng bàn luận làm chi, ấy là lời
Khổng Tử. Mình theođạo Lão Tử, sao lại quen với thầy chùa?
Trấn Nguơn đại tiên nói:
- Chúng bây không biết. Thầy ấy nguyên là đệ tử thứ nhì của Phật
Tổ, ở tại TâyPhương, hiệu là Kim Thiền tử năm trăm năm trước ta
đi coi hội Vu Lan, có quenbiết với nhau, như tình bằng hữu. Nay
tuy Kim Thiền tử đầu thai làm Tam Tạng, talẽ quên cựu ngãi hay
sao? Song đem trái nhơn sâm cho Tam Tạng ăn, đừng cho lũ đồđệ
hay; vì chúng nó là học trò ăn cướp .
Hai tiên đồng vâng lệnh, đều ở lại giữ am.
Nói về bốn thầy trò Tam Tạng đương dạo núi non, ngó thấy trong
vuông tre có lầuđài rực rỡ. Ði lần tới cửa ngỏ, coi tợ cảnh tiên
cõi phật.
Thiệt là:
Lặng lẽ rất yên lòng đạo đức,
Trống không chi nhộn việc người đời.
Tam Tạng xuống ngựa, ngó bên tả cửa núi, có một tấm bia.
Trong bia có mười chữ lớn rằng:
Vạn thọ sơn phước địa, Ngủ trang quán động thiên.
Nghĩa là:
Ðất sanh non Vạn thọ, Trời trổ viện Ngũ trang.
Tam Tạng thấy chữ Viện, liền nói với học trò rằng:
- Ðây là am viện của đạo sĩ,cũng như kiểng chùa Thiền. Hãy đi vô
mà coi thử? Hành Giả nói:
- Phải.
Bốn thầytrò đồng bước vào. Thấy đôi liển dán cửa ngỏ rằng:
Trường sanh bất lão thần tiên phủ,
Dữ thiên đồng thọ đạo nhơn gia.
Nghĩa là:
Còn mãi không dời nhà đạo đức,
Sống hoài chẳng thác viện thần tiên.
Hành Giả cười rằng:
- Ông đạo nầy hay nói lối. Trên cửa cung Ðâu Suất là chỗ ôngThái
Thượng, cũng không viết liển xất như vầy.
Bước vào cửa trông thấy hai đạođồng ra nghinh tiếp. Thưa rằng:
Xin mời vào nghỉ.
Tam Tạng thấy hai đạo đồng, tinh thần tợ nước, cốt cách khác
thường. Liền mừngrỡ đi theo vào am ấy. Thấy giữa am thờ bức
tượng, có hai chữ Thiên Ðịa mà thôi.Ðể lư hương vàng trên bàn án
đỏ.
Tam Tạng thấp hương làm lễ, rồi hỏi hai đạo đồng rằng:
- Am Ngủ trang ở cỏi Tây Phương. Sao chẳng thờ Tam Thanh Tứ đế,
các vị tinhquân? Lại thờ chữ Thiên Ðịa?
Tiên đồng cười chúm chiếm mà rằng:
- Tôi không dám nói giấu sư phụ Thầy tôi thờ chữ Thiên là phải
còn thờ chữ Ðịalà vì tình. Có lẽ nào thờ mấy ông ấy!
Tam Tạng hỏi:
- Vì cớ nào vậy?
Tiên đồng nói:
- Tam Thanh là bằng hữu của thầy tôi. Tứ Ðế thầy tôi cũng quen
lắm. Còn mấy vịsau là kẻ dưới tay của thấy tôi, mà phụng thờ sao
phải?
Hành Giả nghe qua cười dài rồi nói rằng:
- Tưởng có một mình Lão Tôn hay nói ma, chẳng ngờ đồng lữ cũng
vậy!
Tam Tạng hỏi:
- Vậy chớ lịnh sư ở đâu?
Thanh Phong thưa rằng:
- Thầy tôi đi nghe Nguơn Thỉ giảng kinh, vì có giấy mời hôm
trước.
Hành Giả nghe nói cứ việc cười hoài.
Tam Tạng biểu ba người đi ra gánh đồ và dắt ngựa vào. Rồi mượn
nồi vút cơm khômà ăn đở.
Ba người ấy đi hết.
Thanh Phong dâng trà cho Tam Tạng.
Minh Nguyệt hỏi rằng:
- Thầy phải hiệu là Ðường Tam Tạng, qua thỉnh kinh bên phật hay
chăng?
Tam Tạng nói:
- Phải! Sao Tiên đồng biết đặng tên tôi?
Thanh Phong nói:
- Khi thầy tôi ra đi có dặn rành... Nên tôi mới biết. Vậy xin
thầy ngồi nghĩ,đặng tôi hái trái đem dâng.
Nói rồi hai đồng tử vào phòng. Một người cầm cái móc vàng, một
người bưng cáichậu đỏ. Trong chậu lót nhiều khăn tơ lụa cho êm.
Ðồng ra vườn nhơn sâm mà hái.Thanh Phong cầm móc vàng leo lên
cây giựt xuống.
Minh Nguyệt đứng dưới gốc, giơ chậu đỏ hứng hai trái nhơn sâm.
Hái rồi đem ra dâng cho Tam Tạng mà nói rằng:
- Chúng tôi ở Sơn lâm cồn cạn không có vật chi mà đãi thầy. Xin
dâng hai tráinầy, cho sư phụ dùng mà uống nước.
Tam Tạng ngó thấy hai trái ấy, thì run lập cập và ngồi dang ra
xa ba thước, mànói rằng:
- Bạc ác thì thôi! Năm nay mùa màng đặng lắm, làm sao đến nỗi ăn
thịt người? Ðólà hai đứa con nít mới sanh chưa đặng ba ngày. Sao
lại biểu tôi ăn mà uống nước? Thanh Phong nghe nói nghĩ thầm
rằng:
- Ông Hòa Thượng nầy thai phàm mắt thịt, nên không biết trái
nhơn sâm.
Minh Nguyệt thưa rằng:
- Trái nầy gọi là nhơn sâm quả, ở trên cây sanh ra.
Tam Tạng rằng:
- Ðừng có nói xàm. Lẽ nào cây lại sanh người đặng? Không ai ăn
mà ép, hãy dẹpcho mau.
Hai người thấy Tam Tạng một hai không chịu ăn, túng phải bưng
vào phòng màthương nghị.
Thanh Phong nói:
- Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia
nhau mà hưởng. Minh Nguyệt nói:
- Phải. Bởi vì trái nầy để dành lâu không được. Nếu lâu nó hết
giải, thì chếtcứng như thây ma, ăn chẳng ngon mà lại không bổ.
Tại thầy ấy vô phước, nên anhem mình mới đặng nhờ.
Nói rồi mỗi người ăn một trái.
Nói về Bát Giới nấu cơm trong nhà bếp, cũng dựa bên đạo phòng,
lóng tai nghe haingười đồng tử hối nhau: Lấy móc vàng mâm đỏ mà
hái nhơn sâm.
Sau lại nghe nói:
- Ðường Tăng không biết trái nhơn sâm. Thôi, anh em mình chia
nhau mà hưởng. Bát Giới nghe nói thèm chảy nước giải, ước phải
chi có một trái mà ăn.
Xãy thấy Hành Giả dắt ngựa tới, buộc trên nhánh cây.
Bát Giới ngoắt lia ngoắt lịa.
Hành Giả bước tới, Bát Giới nói rằng:
- Ðây có một món bữu bối, anh biết hay không?
Hành Giả hỏi:
- Bữu bối gì ở đâu?
Bát Giới nói:
- Anh biết nhơn sâm quả hay không?
Hành Giả nói:
- Tuy ta chưa thấy, mà nghe người nói: Nhơn sâm quả là Thảo huờn
đơn, nếu ăn nóthì sống lâu lắm. Mà ở đâu có bây giờ?
Bát Giới nói:
- Hai đạo đồng dâng hai trái cho thầy. Thầy không biết là trái
nhơn sâm; chẳnghề động tới. Hai thầy khốn nạn quá. Phải chi thầy
không hưởng, thì nó hiến chomình. Té ra hai đứa đem nhơn sâm vào
phòng, nuốt ọt với nhau hết trọi! Chúng takhông đặng một miếng,
cũng nên hái trộm mà ăn .
Hành Giả nói:
- Chuyện ấy dễ như chơi, để ta đi hái .
Nói rồi liền chạy.
Bát Giới niu lại nói rằng:
- Tôi nghe nó nói phải lấy móc vàng mới hái đặng, mình phải sắm
cho sẳn sàng .Hành Giả nói:
- Ta hiểu rồi .
Liền tàng hình vào phòng, không thấy đạo đồng ở đó. Ngó quanh
ngó quất. Thấytrên song có móc một cây móc vàng dài ước chừng
hai thước, lớn bằng ngón tay cáimà thôi. Trên có cái vòng bằng
nhung, dưới cán có củ tỏi, chắc Kim bích là vậtnầy. Vì có vòng
để móc vào mà giựt. Lấy rồi ra cửa sau ra tới vườn huê, đi
khỏivườn huê tới vườn rau cải, đi khỏi vườn cải thấy có cửa
ngăn. Mở cửa ngăn ra,thấy một cây Ðại thọ.
Thiệt là: Cây thơm bát ngát, lá rậm diềm dà, coi cho kỹ thì lá
như lá chuối, câycao ngàn thước, đo giáp vòng 70 thước dư.
Hành Giả đứng dưới gốc ngó lên thấy nhánh bên nam có một trái,
coi như đứa connít, sau đuôi có cuốn dính trên nhánh cây. Chân
tay đều cử động. Lắc đầu nhănmặt, nghe xa xa như tiếng khóc la.
Hành Giả mùng quýnh nói:
- Thiệt ta chưa từng thấy!" Nói rồi nhảy dựng lên cầm móc vàng
mà giựt. Thấyrụng xuống một trái, nhảy bổ theo liền. Kiếm hèn
lâu không đặng.
Hành Giả nói:
- Dầu nó có cẳng, chạy cũng nội khoản nầy. Vì cớ nào mà kiếm
hoài không đặng!Chắc là Thổ Ðịa giữ vườn, không cho ta hái trộm,
nên lén giấu đi .
Nghĩ rồi liền bắt ấn, niệm thần chú ám tự, thâu Thổ Ðịa tức thì.
Khi ấy Thổ Ðịa đến làm lễ hỏi rằng:
- Ðại Thánh đòi tiểu thần tới, có dạy chuyện chi?
Hành Giả nói:
- Ngươi há không biết Lão Tôn là ăn cướp tổ hay sao, năm xưa ta
ăn trộm bàn đào,uống vụn ngự tửu, lại ăn cắp thuốc Linh đơn,
chẳng ai dám chia của tang với tahết thảy. Giá gì nay ta lén hái
một trái nhơn sâm quả, mà ngươi chặn lận của ta?Vả chăng trái ấy
ở trên cây, chim cũng ăn, dầu ta ăn một trái lại can chi? Cớsao
ta mới làm rớt xuống đây, lẽ nào ngươi giựt ngược?
Thổ Ðịa nói:
- Xin Ðại Thánh miễn chấp tiểu thần, sự ấy rất oan cho tôi lắm!
Bửu bối ấy làvật Ðịa tiên, còn tôi là quỷ tiên lấy làm sao đặng?
Chẳng những là cầm khôngđặng, thiệt vô phước chưa đặng hưởng lần
nào .
Hành Giả nói:
- Nếu ngươi không lấy. Cớ gì rớt xuống liền mất đi?
Thổ Ðịa nói:
- Ðại Thánh biết nó là vật trường thọ. Mà chưa rõ nó có kị ngũ
hành .
Hành Giả nói:
- Nó kị những vật gì?
Thổ Ðịa nói:
- Trái nầy gặp hơi vàng thì rụng, cây đụng đến thì khô, gần lửa
thì cháy đen,rớt xuống đất thì lặn mất. Nên phải dùng đồ vàng mà
móc nó, nếu để gần hơi câythì mất nước, ăn cũng không hay, nếu
muốn ăn thì để nó vào đồ sành, chế nướclạnh vào thì tan ra nước
mà uống. Tuy đất nầy bốn muôn bảy ngàn năm, cứng hơnsắt, dùi
khoan không phủng, mà nó chun xuống như chơi. Bởi vậy ăn nó thì
sốnglâu lắm .
Hành Giả không tin lời ấy, lấy thiết bảng đập xuống đất, nghe
kêu một tiếng,thiết bảng dội lên mà đất không có dấu!
Hành Giả nói:
- Kỳ lắm, kỳ lắm! Làm ngươi bị rầy oan rầy ức, thôi ngươi trở về
đi .
Thổ Ðịa vâng lời biến mất.
Khi ấy Hành Giả tính ra kế. Liền cầm móc leo lên, một tay móc
nhơn sâm một taykéo áo ra hứng, bọc đặng ba trái, chạy riết về
trù phòng, nói với Bát Giới rằng:
- Của nầy không phải của riêng, nếu ăn lén Sa Tăng thì dở lắm.
Hãy kêu một tiếngcho mau!
Bát Giới ngoắt Sa Tăng vào nhà bếp.
Hành Giả dở bọc hỏi rằng:
- Em biết vật gì đó hay không?
Sa Tăng nói:
- Ấy là nhơn sâm .
Hành Giả nói:
- Thiệt hay lắm, em đã biết trái nhơn sâm, khi trước ăn tại đâu
mà rõ?
Sa Tăng nói:
- Tôi tuy chưa ăn nó, mà hồi làm Quyện Liêm đại tướng, thường
thấy các tiênngoài biển đem dâng cho Ngọc Hoàng, song chưa ăn
đặng. Ðại ca cho tôi xin mộtchút, đặng nếm cho biết mùi!
Hành Giả nói:
- Không cần xin một chút làm chi, cứ ba anh em mỗi người một
trái .
Bát Giới lấy một trái, nhấp vào cái rồi nuốt, lật đật không kịp
nhai.
Liền hỏi rằng:
- Sư huynh sư đệ, hai người ăn nó ra làm sao?
Hành Giả nói:
- Ngươi ăn trước hết thảy, còn trở lại hỏi ai .
Bát Giới nói:
- Tôi ăn mau quá, chẳng biết có hột hay không? Tôi nhấp sơ rồi
nuốt trọng. Anhôi! Hễ làm ơn thì làm ơn cho trót. Kiếm thêm một
trái nữa, tôi ăn thủng thẳngcho biết mùi .
Hành Giả nói:
- Bụng ngươi tham không cùng, biết bao nhiêu cho đủ? Mình cũng
có phước lắm mớiăn đặng một trái nầy. Thôi thôi đã đủ rồi, đừng
có đòi nữa .
Nói rồi đứng dậy lấy Kim bích quăng vào lỗ song.
Còn Bát Giới cứ cằn nhằn cẳn nhẳn nói hoài, cũng có bấy nhiêu
chuyện.
Vừa lúc hai đạo đồng trở lại đạo phòng, nghe Bát Giới cằn nhằn:
- Ăn trái nhơn sâmuổng miệng quá! Phải được một trái nữa ăn mới
biết mùi .
Thanh Phong nghe nói nghi rằng:
- Minh Nguyệt! Em nghe hòa thượng mỏ dài nói đó không? Giống gì
mà phải được mộttrái nữa ăn mới biết mùi. Khi thầy đi có dặn
rằng: Phải phòng lũ học trò ăncướp. Có khi nó hái trộm nhơn sâm
chăng .
Minh Nguyệt ngó ngoái lại nói rằng:
- Không xong rồi anh ôi! Cây kim bích sao rơi xuống đất? Mình ra
vườn xem thửthể nào .
Hai người đi ra thấy cửa vườn đã mở, coi đếm lại còn có hai mươi
hai trái.
Minh Nguyệt nói:
- Nó hết thảy là ba mươi trái, thầy hái hai trái chia nhau mà
ăn, lại còn háihai trái mà đãi Tam Tạng, thì còn hai mươi sáu
trái rõ ràng sao mất hết bốntrái, chắc là các sãi trọc ăn cắp
rồi. Thôi cứ vô nhiếc Ðường Tăng thì ra mối .
Nói rồi hai người vào chỉ mặt Tam Tạng mà mắng trọc ơi trọc hỡi
hơn một hồi, TamTạng nghe không hết mới hỏi rằng:
- Chuyện chi mà Tiểu đồng rầy dữ vậy?
Thanh Phong nói:
- Thiệt là ngươi điếc, người ta mắng nhiếc mà không nghe, ăn vụn
trái nhơn sâm,mà không cho người ta nói!
Tam Tạng nói:
- Tôi có biết trái nhơn sâm ra làm sao! Xin chớ nói oan mang tội
.
Minh Nguyệt nói:
- Tôi đem cho thầy ăn thầy nói in đứa con nít, mới đó đã quên
lững hay sao?
Tam Tạng nói:
- Mô Phật, thấy trái đó đà thất kinh hồn vía, tôi nào dám động
tới đâu, xin đừngnói tôi ăn vụn vật nầy mà mang tội .
Thanh Phong nói:
- Tuy thầy không ăn, ngặt học trò thầy nó ăn vụng .
Tam Tạng nói:
- Có khi phải đó. Thôi đừng có rầy, để tôi hỏi lại, như quả nó
ăn cắp, bắt nólạy mà chịu lỗi với hai ông .
Tam Tạng liền kêu ba người đồng lên biểu.
Sa tăng nói:
- Không xong rồi, chắc sự nhơn sâm đã lậu!
Hành Giả nói:
- Mắc cở chết đi mà thôi! Chịu tiếng ăn vụng, xấu hổ biết dường
nào, chi bằngchối phứt cho xong, không tang án gì mà sợ?
Bát Giới nói:
- Phải phải, ai chịu án ăn vụn làm chi .
Ba anh em bàn luận rồi, đồng đi ra một lượt. |