Ba ngày đầu ở nông trại Lệ Thanh tôi bận rộn
làm quen với các nhân vật và cảnh sống mới. Trong 3 ngày đó,
tôi đã biết được nhiều điều mà tôi chưa hê biết, như làm thế
nà phân biệt cây cỏ, thế nào là bảo vệ đất đai, biết chứng
bệnch héo lá cây lúa, kể luôn cả phương thức lấy sửa bò. Có
một lần phu. Diễm Chi vắt sữa bò, suýt nữa tôi đã bị bò đá
văng vào thùng sữa. Cuộc sống mới tràn đầy những mới lạ, đó là
chưa kể đến những nhân vật trong nông trại như bác , bác Châu,
Tú, Phong và Diễm Chi đều có những đời sống riêng tư lạ lùng,
giống như đám rừng xanh âm u chằng chịt dây leo.
Càng lúc tôi càng thấy thích cuộc sống này, suốt ngày rong
rong trong rừng làm cho má tôi đỏ hồng, tim tôi rộng mở. Tôi
bị lôi cuốn bởi đồng cỏ xanh, bởi rừng thẳm. Rắn rết không còn
là nhân vật đáng sợ để chận bước chân mạo hiểm của tôị 3 ngày
qua, da mũi tôi đã lội, trông tôi mạnh khỏe ra. Soi mình trong
kính, bây giờ tôi đã là một cô gái rừng xanh man dại. Điều này
khiến tôi hiểu thêm về mình một chút, xưa nay tôi vẫn cứ tưởng
mình chỉ là đứa con gái thích yên tĩnh hơn là ồn ào. Tôi hiểu
thêm cái cá tính thô bạo mai phục lâu ngày trong dòng máu của
tôi. Tôi là đứa tin tưởng thuyết tiến hóa của Darwin cho rằng
thủy tổ loài người là loài khi?
Đêm hôm đó Diễm Chi mang chiếc nón vải màu xanh da trời bước
vào phòng tôi. Để chiếc nón lên bàn, nhìn tôi cười e thẹn:
- Chiếc nón này em làm cho chi. Thu đấy, chi. Thu đừng chê nhé.
- Thế à!
Tôi ngạc nhiên. Cầm nón lên, tôi ngắm nghía món quà trông đẹp
và dễ thương , có chiếc vành rộng cứng, đôi quai xanh đậm. Tôi
khen:
- Đẹp quá!
- Anh Hai bảo chị cần một chiếc nón, em thấy chi. Thu thích
màu xanh nên em chọn màu này. Chỉ sợ chị không thích. Tôi nói
ngớ ngẩn:
- Sao? Cái nón này Chi làm cho tôi đấy à?
Nụ cười cô bé thật ngọt:
- Vâng, chị thích không?
- Làm sao tôi không thích được? Tôi đội chiếc nón lên, ngắm
mình trong gương. Màu xanh thật hợp với khuôn mặt tôi.
- Lệ Thu, chị đẹp quá.
- Tôi à? Nhìn mình trong gương, tôi có thấy tôi đẹp chỗ nào
đâu? Nhất là khi đứng cạnh Diễm Chi. Kéo Chi ngồi xuống, tôi
đẩy kính tới trước mặt nàng: - Nhìn Chi xem, Chi mơ 'i đẹp chứ!
Diễm Chi lắc đầu cười thành thật:
- Chị mới đẹp. Anh Cả bảo chị đẹp tự nhiên như những sợi dây
leo bên bờ suối. Mạnh mẽ, trẻ trung và chín muồi.
- Anh Cả bảo thế à?
Nghĩ đến người thanh niên trầm lặng ít nói, tôi bỗng thấy nóng
mặt.
- Vâng, anh ấy nói đúng như thế, em chẳng có sửa chữ nào cả.
Kéo chiếc nón xuống. Tôi là dây leo bên bờ suối? Thật buồn
cười, tôi nói:
- Anh Cả đúng ra phải học văn khoa mới phải, tại sao lại so
sánh lạ lùng như vậy?
- Anh ấy cũng thích văn chương lắm, nhưng học văn khoa chẳng
giúp ích gì được cho nông trại này. Lúc cha mua mảnh đất này,
chúng tôi chẳng biết tí gì về canh nông, cứ trồng bậy bạ cho
đầy mặt đất. Hai năm đầu thất bại liên tiếp. Ở đây lại chẳng
có điện, mỗi tối muốn đi thăm ruộng phải mang theo đèn bão,
bây giờ thì có rồi. Anh Cả đã áp dụng nhiều phương pháp khoa
học vào việc cải tạo đất đai, chọn giống tốt, và cha tôi bây
giờ lại chỉ là phụ tá cho anh ấy mà thôi.
Tôi nói:
- Anh ấy chắc cũng thích nghề nông lắm, bằng không làm sao lại
chịu khó suốt ngày ngoài đồng?
Diễm Chi ngần ngừ:
- Cũng có thể như vậy. Nhưng dù sao anh Cả cũng là người thực
tế, không thích nói chuyện viễn vong như anh 2.
Tôi hỏi mà không cố tình tìm hiểu:
- Anh ấy bao nhiêu tuổi vậy Chi?
- Hai mươi chín.
- Sao chưa chịu lập gia đình?
Diễm Chi như muốn nói điều gì, nhưng lại thôi. Một lúc nàng
mới bảo:
- Tính anh ấy kỳ lắm. Để hôm nào tôi kể cho chị nghe, bằng
không rồi chị cũng biết.
Biết? Biết cái gì? Đầu óc tôi quay cuồng với bao nhiêu dữ kiện
có tính cách tiểu thuyết. Một mối tình đã chết ư? Mối tình si
điên cuồng nào đã diễn ra bên bờ suối, trên cánh đồng, trong
rừng...? Họ cùng nhau tung tăng khắp nơi. Nhưng rồi sự bất
hạnh xảy đến: Người con gái đã chết? Bỏ đi? Hay lấy chồng?
Người con trai đau khổ đã đánh mất đi nụ cười, vùi đầu vào
công việc để quên đi tháng ngày buồn thảm... ?
Diễm Chi đã bỏ đi, chỉ còn tôi ngồi yên lặng trên ghế, để thêu
dệt câu chuyện tưởng tượng. Rút quyển " Ngôi nhà trầm mặc yêu
dấu" ra rồi bắt đầu ghi vài nét đại cương. Cậu chủ nông trại
bắt đầu thành hình, hắn phải là gã đàng ông thầm lặng ít nói,
mặt lầm lì. Còn người con gái? Tôi nghĩ mãi mà tìm không ra
mẫu người thích hợp Con gái của một đại thương gia? Đại thương
gia này có ngôi biệt thự gần nông trại? Người con gái về đây
dưỡng bệnh? Đúng rồi, người con gái phải xanh xao, yếu đuối.
Giống như trong một bản nhạc " Bàn tay yếu đuối lạnh lùng".
Vâng, cô nàng phải có bàn tay gầy và lạnh. Mái tóc xõa vai. Họ
làm sao gặp nhau? Yêu nhau rồi chia tay.
Tôi nhìn rừng trúc bên ngoài song cửa qua ngọn đèn trước mặt.
Phải rồi, để người con gái đó chết đi? Không được. Buông sách
xuống, tôi lẩn quẩn bước trong phòng. Truyện tầm thường quá!
Tôi ném sách vào hộc tủ. Câu chuyện viết lách của tôi cũng
theo cơn gió ngoài cửa bay đi. Ngả người xuống giường, đưa mắt
nhìn lên trần nhà, làm sao để cho hai nhân vật chính trong
truyện gặp nhau và xa nhau, đó chính là nỗi khổ tâm. Nhưng sự
thật thì câu chuyện xảy ra như thế nào?
Câu hỏi lởn vởn trong trí tôi một lúc rồi cũng bay mất. Gió
thổi qua lá trúc tạo nên những âm thanh dịu vợi. Ánh trăng len
vào song cửa lay động bao chiếc bóng. Tôi như chìm đắm trong
giấc mộng say của đêm khuya.
Buổi sáng, tiếng chim hót đầu tiên trong ngày đã đánh thức tôi
dậy. Từ ngày đến trại LệThanh tôi đã bắt đầu tập được thói
quen là ngủ sớm. Nhìn đồng hồ đeo tay, mới năm giờ rưỡi, nhưng
nền trời đã xuất hiện giải mây trắng đục. Đàn chim sẽ ríu rít
trên cành trúc. Mặc chiếc áo màu xanh cổ rộng, lấy lược chải
qua mái tóc ngắn, tôi định ra vườn hít lấy không khí trong
lành buổi sáng sớm. Vừa bước đến cửa là đã nghe tiếng gõ " cộp!
cộp" bên ngoài.
Tôi mở cửa. Phong cười với tôi và hỏi một câu thật thừa:
- Thu thức dậy rồi à?
- Anh không thấy đây sao?
- Vậy thì, theo tôi, tôi sẽ đưa cô đến nơi này đẹp lắm.
- Xa không?
- Đừng lo, đi với tôi thì chẳng phải lo gì cả.
Tôi chụp lấy chiếc nón trên bàn, bước ra cửa. Phong nắm tay
tôi, chúng tôi lẻn ngả sau đi. Đến nhà bếp, tôi múc thau nước,
rửa sơ qua gương mặt ngủ. Phong đợi tôi rửa xong, mới lấy nước
thừa rửa mặt, tôi bảo:
- Anh không ghê à?
Phong cười, hắn mang gương mặg đây nước bước đi nói:
- Ở đây đâu phải là thành phố đâu mà thừa thải nước. Nơi này,
nước xài phải xuống suối gánh lên. Đến trước cửa nhà bếp, cô
Hương đang nhúm lửa. Phong ngẫm nghĩ một chút rồi quay vào nhà
bếp cầm mấy quả trứng gà đã luộc chín, lục lọi trong tủ lấy
thêm chiếc đùi con gà quay và hai chiếc cánh rồi lấy giấy gói
lại, xong bảo cô Hương:
- Thưa với ông bà là tôi đưa cô Thu đến chợ không về ăn sáng
nhé. Trưa cũng đừng chờ cơm vì có lẽ đến hai ba giờ chúng tôi
mới về.
-------------
Ra khỏi ngôi nhà " Trầm mặc", xuyên qua khu rừng trúc âm u,
chúng tôi đến trước một thảo nguyên mờ sương. Những đám sao
muộn vẫn lấp lánh trên trời. Phía đông là ngọn núi cao, mặt
trời tung những tia sáng riêng rẽ qua đám mây mù làm lưng trời
đỏ ối! Tôi đội nón lên, thắt chiếc nơ dưới cằm. Quay lại đã
bắt gặp ánh mắt nhìn chằm chặp của Phong tôi hỏi:
- Làm gì thế?
Phong nhướng mày, huýt gió:
- Cô đẹp lắm, đẹp như mây trời buổi sáng.
Tôi thành thật:
- Tôi không thích nghe những tiếng huýt sáo như thế. Anh nên
theo gương anh Tú, anh ấy đứng đắn chớ không hay đùa cợt như
anh.
Phong bất mãn:
- Ai cũng muốn tôi học theo tính anh Tú. Không lẽ tôi không
thể là tôi được hay sao chứ? Thượng đế tạo ra con người cũng
tạo ra những mẫu người khác nhau. Dù nh Tú có hoàn toàn đi nữa
thì anh ấy vẫn là anh ấy, còn tôi vẫn là tôi, vả lạị..! Trừng
tôi hắn bảo: - Tôi thích là tôi hơn và tôi ghét nhất là hạng
đàn bà mà lúc nào cũng muốn lên mặt dạy đời.
Ngước nhìn tới trước chúng tôi đang bước qua mảnh đất thực
nghiệm của bác . Tôi trả miếng hắn:
- Tôi cũng ghét nhất là đàn ông hơi nói động tí đã giận
- Hình như chúng ta chưa quen biết nhau đến độ phải cãi nhau
như thế.
- Nhưng mới gặp nhau lần đầu thì giữa hai đứa đã không có hòa
bình rồi.
Hắn không cãi lại, tôi cũng không muốn nói gì thêm. Đám sa mù
trên đồng cỏ tan thật nhanh. Cảnh vật càng lúc càng tỏ. Mặt
trời đã leo khỏi sườn núi chiếu những tia nắng ấm lòng làm
chói lọi cả một sườn núi. Vầng thái dương đỏ rực và tròn trịa
từ từ lên cao. Vạn vật bắt đầu thức giấc. Nắng trải dài, những
đám mây mau cam đã tan biến. Phong đang đi bên cạnh tôị đột
nhiên cười to, hắn kéo lấy tay tôi nói:
- Lệ Thu, chúng ta điên thật!
Tôi quay sang, ánh mắt của hắn đang ngời sáng cười thẹn thùng:
- Bây giờ chúng ta thương thuyết nhé. Thu thử nghĩ xem, nghỉ
hè có 4 tháng mà chúng ta lại giận nhau coi gì được, hòa nhé?
Được không?
- Tôi chẳng muốn cãi với anh tí nào.
- Được rồi, đừng nhắc tới chuyện đó nữa. Bây giờ chúng ta chạy
đua xem ai đến được tảng đá kia trước.
Chúng tôi bắt đầu chạy, váy tôi xõa tung, nón tôi muốn bay
theo gió, và khi chúng tôi dừng bước cả hai cùng mệt lả. Vừa
thở vừa cười, vẻ trẻ trung tràn đầy sức sống của Phong như lan
truyền sang cơ thể tôi. Bây giờ tôi không còn là con bé Lệ Thu
ngồi bên song cửa để mơ mộng nữa mà đã thoát xác. Vỗ nhẹ xuống
tảng đá, Phong hỏi:
- Ngồi không?
Tôi nhìn quanh, chúng tôi đã cách xa khu nhà trầm mặc xa quá
rồi. Trước mắt đầy cỏ dại và gaị, xa hơn là những thân cây to
lớn kinh khiếp. Tôi hỏi:
- Đây là đâu? Tại sao không đi ngoài lộ lớn mà chui vào đây
chứ? Hay là chúng ta đi đường tắt xuống chợ huyện?
Phong cười:
- Ai nói với cô là tôi đưa cô xuống chợ?
- Chính anh nói mà?
- Chơ huyện có gì đáng xem đâu? Cô muốn xuống chợ để làm gì,
có gì chơi đâu, không lẽ xuống để nhìn mấy cái nhà rồi thôi à?
- Nhưng chính anh bảo với cô Hương là mình xuống chợ cơ mà?
- Nói cho qua ấy mà. Chỉ hòn núi cao trước mặt, Phong bảo:
- Tôi sẽ đưa cô đến hòn núi đó. Nhớ ra vị trí ở đây chưa? Qua
khỏi con suối nhỏ này là chỗ cô nằm ngủ hôm trước đó!
Tôi không nhớ nổi, vì cảnh vật ở đây đều gần giống nhau cả.
- Thế núi này họ gọi là núi hoang à?
- Cũng không hoang lắm, tiều phu họ thường vào đây đốn củi,
đôi lúc cũng có người đến săn nữa.
- Có thú dữ à?
- Chỉ có khỉ với gà rừng. Người Thượng ở đây bắt sống khỉ đem
ra chợ bán. Bây giờ chúng ta tiếp tục đi nào! Qua khỏi khu
rừng, chúng tôi bắt đầu treò núi. Trên sườn cao cây mọc thật
rậm, loài thông lá vàng và bàng là nhiều nhất. Tôi có cảm
tưởng mình đang đi giữa rừng già.
Nhưng có điều, đúng như lời Phong nói, nó chẳng có vẻ hoang
lắm, vì trên đường có nhiều chỗ chúng tôi thấy dấu vết của cỏ
bị dày nát hoặc thấy dấu cành lá bị chặt Đường núi thật dốc,
nhưng cũng có chỗ thật phẳng. Phong nắm tay tôi đưa đi mỗi khi
gặp đá to hay gặp cỏ gai. Rừng rậm, núi cao không che khuất
được mặt trời, chẳng mấy lúc mà lưng chúng tôi đã đẫm mồ hôi,
Phong kiếm một bóng mát, rồi đi tìm 2 hòn đá to đặt nơi đấy và
bảo tôi:
- Lại đây ngồi nghỉ đi Thu.
Tôi ngồi xuống, mở nón ra làm quạt. Vừa ngồi xuống tôi đã cảm
thấy khỏe ngay. Gió trong rừng thật mạnh. Nhìn xuống sườn núi,
rừng xanh trải dài. Xa xa, nông trại Lệ Thanh trông thật rõ.
Tôi kêu lên:
- Xem kìa! Khu nhà trầm mặc kìa!
Rừng trúc nhỏ như đồ chơi của trẻ con. Một làn khói nhẹ từ từ
bốc lên tỏa rộng ra thành mây. Tôi nhớ đến câu thơ " Khói lam
quyện lấy chân mờ" mà lòng lâng lâng như rơi vào giấc mơ tuyệt
hảo. Phong nói:
- Tôi biết cô thích nơi này nên đưa cô đến để lấy hứng. Thế
nào, tập "Khu nhà trâm mặc yêu dấu" sẽ được tăng thêm một
chương phải không?
Tôi trừng Phong:
- Cái gì? Ai cho phép anh xem trộm ha?
Phong bảo:
- Tôi xin lấy nhân cách con người tôi ra để bảo đảm là tôi
không hê coi trộm bất cứ cái gì của cô, tôi chỉ nghe Diễm Chi
nó bảo cô có quyển sách như thế thôi!
Đưa tay vịnh vào cành, Phong đứng dậy nói với tôi:
- Cô ăn nói nhẹ nhàng tí được không?
Tôi cố lấp liếm:
- Vì đó là quyển nhật ký của tôi.
Phong cười nham nhở:
- Vậy thì câu chuyện hôm nay chắc chắn sẽ chiếm một trang giấy
rồi.
Tôi đứng dậy, cột nón lại:
- Thôi, chúng ta tiếp tục cuộc hành trình đi!
Chúng tôi đi vào núi. Phong thành thạo vùng này như ở nhà.
Quẹo mặt, chui dưới lùm cây, Phong bước thoăn thoắc, tôi theo
mệt không kịp thở. Sau đấy chúng tôi đến khu rừng già. Ở đây
ánh nắng mặt trời đã bị khuất. Vượt qua khỏi bóng râm, phong
cảnh trước mặt làm cho tôi ngạc nhiên đến độ nín thở, há hốc
cả miệng, không ngờ nó đẹp đến độ tôi tưởng chỉ có thể có
trong giấc mơ mà thôi. Trước mắt tôi là chiếc hồ nhỏ, nước
trong xanh, sóng gợn lăn tăn. Chung quanh hồ là rừng cây cao
bao bọc. Dưới ánh nắng mặt trời, nước hồ lấp lánh như bạc.
Bóng cây, gió... Nhưng điều khiến cho tôi say mê nhất là trên
bãi cỏ xanh gần mặt hồ những khóm hoa thật thần tiên! Nước
xanh, cây xanh, sa mù cũng gần như xanh làm cho đám khói đằng
kia cũng xanh ngắt. Nhìn quanh, tôi không biết mình phải làm
gì nữa. Phong đứng cạnh yên lặng, một lúc, hắn đến trước mặt
tôi ngồi xuống:
- Sao Thu không nói gì cả thế?
Tôi hít mạnh không khí vào lồng ngực:
- Tôi không biết nói gì cả. Không ngờ anh lại đưa tôi đến thế
giới thần tiên như trong truyện cổ tích thế này.
Phong gật đầu, mặt chàng thật nghiêm nghị:
- Tôi hiểu cảm giác hiện nay của cô. Lần đầu tiên khi khám phá
ra chiếc hồ này, tôi cũng đã bàng hoàng như thế, tôi đã nằm
suốt một ngày trời bên bờ hồ, không ăn, không uống, bất động
như kẻ bị mê hoặc.
Có lẽ tôi cũng đang bị mê hoặc. Đám mây mù phủ khói xanh trên
mặt hồ kia, như tràn ra quấn quanh tôi. Nhìn sóng nước, nhìn
bóng cây trong hồ, nghe tiếng gió rít qua rừng cây, tôi cảm
thấy mình đang tan biến theo khói mây. Tiếng Phong nhẹ nhàng
bên tai:
- Khi tôi tìm ra hồ nước này thì lúc đó lại nhằm mùa thu. Trên
bãi cỏ ngập lá vàng, và lúc bấy giờ tôi mới hiểu được câu thơ
của Phan Trọng Yên.
- Thơ của Phan Trọng Yên à?
- Vâng. Phong nhìn xuống mặt hồ khẽ ngâm:
Trời cao xanh ngắt một màu
Lá vàng rơi ngập đất sầu mang mang.
Sóng thu như quyện khói lam
Còn nghe sương lạnh trên cành rụng rơi.
Tôi nhìn xuống hồ, lòng chợt bâng khuâng. Phong đứng bên cạnh
bờ hồ không còn là Phong ở nông trại nữa. Bây giờ tôi mới khám
phá ra một con người khác của Phong, mặt của Phong mờ ảo,
chàng đã trở thành một nhân vật bí hiểm, trầm mặc, hiền lành.
- Còn ai biết chiếc hồ này nữa không?
- Tôi không làm sao giữ bí mật được, vì vậy ai cũng biết đến
và chúng tôi đặt cho nó cái tên là Hồ Mộng.
Hồ Mộng? Tôi có cảm giác ngờ ngợ như mình đang nằm mơ thật.
Ngắt đóa hoa đỏ, ném xuống nước, gió đưa cánh hoa càng lúc
càng xa như cánh buồn ra khơi. Tôi chăm chú nhìn chấm đỏ giữa
hồ nước. Giả sử bây giờ mà có một bà tiên áo trắng xuất hiện
từ trong cánh hoa lên cao thì chắc tôi cũng không ngạc nhiên
lắm, vì đây đâu còn là chống phàm tục nữa.
Tiếng Phong hỏi:
- Thu biết hoa này tên gì không?
Tôi lắc đầu:
- Không!
Đôi mắt Phong đăm đăm trên cánh hoa trong.
- Dân miền thương ở đây có một truyền thuyết về hoa này. Theo
họ thì có một cô sơn nữ yêu một chàng trai miền xuôi, đoạn kết
của mốt tình là câu thanh niên kia bị cha nàng giết chết và
nàng tuyệt vọng nhảy xuống hồ chết theo nàng. Mùa xuân năm
sau, ven hồ mọc lên loài hoa đỏ, người thượng đặt tên là hoa
Tình Lụy, cũng như đặt tên cho chiếc hồ này cái tên là Hồ Lụy
Tình. Và họ cho rằng chiếc hồ này tượng trưng cho sự bất hạnh,
nên k hông bao giờ đến.
Hoa Tình Lụy? Hồ Lụy Tình. Một câu chuyện tuyệt vời, tại sao
bất cứ một chiếc hồ đẹp nào cũng có những câu chuyện lưu
truyền bất tận thế? Chỉ nhìn xuống hồ không tôi cũng muốn nhảy
xuống trầm mình ngay rồi, cần chi phải thêu dệt thâm một câu
chuyện tình éo le thế. Trong óc tôi hình ảnh người thiếu nữ
đau thương kia đang gieo mình xuống hồ cứ lẩn quẩn trong trí.
Hôm nay ngất định phải ghi câu chuyện này vào sổ. Hoa Tình Lụy
và hồ Lụy Tình.
Phong đánh thức tôi:
- Thôi, đừng có ngơ ngơ ngẩn ngẩn thế, cô đói rồi phải không?
Phong đưa chiếc đùi gà cho tôi. Ngửi thấy mùi thịt gà rô-ti là
tôi trở về thực tại ngay. Tôi đói thật Đem trứng ra, chúng tôi
bắt đầu bữa ăn sáng. Thật ra thì đã hơn mười giờ rưỡi rồi. Tôi
cẩn thận ném xương gà và vỏ trứng vào trong bụi, để không làm
oen ố bờ hồ. Trong rừng, tôi thấy một tờ báo cũ, một ít vỏ
chuối, trở về tôi bảo Phong:
- Có người mới đến đây, ở bìa rừng có vết tích của buổi
picnic.
Phong có vẻ chú ý:
- Thế à?
- Sao? Lạ lắm sao?
- Cũng hơi lạ!
Phong nói, chàng đi một vòng vào rừng, lúc trở về trên tay là
nùi giấy nhỏ. Mở ra xem, chỉ thấy đầy những chữ "xanh" nguyệch
ngoạc. Nhìn chữ đóan người, tôi nghĩ đây là người có tâm hồn
đẹp, có thể cảm thông được vẻ đẹp của hồ "xanh" Phong cười to,
rồi ném mảnh giấy nhầu nát kia vào trong rừng, nói:
- Nét chữ của anh Tú, ai đã làm anh ấy hứng thú đến độ đến đây
thơ thẩn thế?
Đóa hoa vẫn còn lênh đênh trên mặt hồ. Tôi nằm xuống, mắt nhìn
thẳng lên ngọn cây cao. Có một chú bồ câu lướt quá, phải chăng
đấy là bồ câu của Diễm Chi? Lại gởi thư cho tình nhân? Phong
ngồi cạnh bên tôi, khẽ hát:
Có người con gái xinh xinh
Bên hồ này đã có lần dạo chơi
Tuổi đời phiêu lãng mây bay
Rồi nàng đi để nơi này quạnh hiu
Nàng đi nhỏ gót phương nào
Mà đây còn để mối sầu cỏ hoa.
Tôi hỏi:
- Anh hát gì thế?
- Có một thời bản nhạc này rất thịnh hành. Mọi người trong xóm
đều hát. Đúng ra thì lời Thượng, nhưng ông hiệu trưởng Bạch đã
dịch sang tiếng miền xuôi cho dễ hát.
- Hiệu trưởng Bạch?
- Vâng, hiệu trưởng Vi Bạch, một nhân vật đặc biệt của vùng
này.
- Thật đặc biệt à?
- Vâng, nhưng cô đừng cố ý hiểu lầm nhé. Ông ấy là một người
rất đứng đắn và uyên bác, nhưng không hiểu tại sao lại thích
chôn vùi đời mình ở nơi thâm sơn cùng cốc này.
Tôi nằm dài đó, không nói gì cả. Bóng mát của rừng cây rợp
mát. Ánh nắng lấp lánh bên trên cành lá. Hoa Tình Lụy tỏa mùi
thơm nhẹ trong không khí.
Phong hát nho nhỏ:
Có người con gái xinh xinh
Bên hồ này đã có lần dạo chơi
Tuổi đời phiêu lãng mây bay
Rồi nàng đi để nơi này quạnh hiu
Nàng đi gót nhỏ phương nào
Mà mây còn để mối sầu cỏ hoạ..
Tôi nhắm mắt lại, câu chuyện tình kia ru hồn tôi. Cô sơn nữ,
Hoa Tình Lụy, Hồ Lụy Tình và cả tiếng hát của Phong vây chặt
tôi.
6
Khi hoàng hôn xuống, người đưa thư mang đến nông trại hai
phong thư của mẹ: một cho tôi và một cho bác Châu. Mang thơ về
phòng, đóng cửa lại tôi đọc thư thật chậm. Việc ly dị của cha
và mẹ chưa xong. Gấp thư lại tôi nằm dài trên giường nghe
tiếng trúc xào xạc ngoài song. Chuyện bỏ nhau kia phải ra đến
tòa. Thế giới người lớn sao lắm chuyện kỳ cục thế này? Từ chỗ
xa lạ không quen biết, đến gặp nhau, yêu nhau rồi lại xa nhau.
Suốt một đời người chẳng qua chỉ là một chuỗi ngày hợp tan
tiếp nối. Cuối bức thư mẹ viết:
"... Lệ Thu, mẹ mong con sẽ làm quen với nếp sống ở nông trại,
khi thu xếp xong mọi việc mẹ sẽ đón con về nhà ngaỵ" Về nhà?
Nhưng lúc bấy giờ nhà tôi sẽ ra sao? Một người đàn ông sẽ
chiếm lấy vị trí của cha, hay là một người đàn bà khác sẽ
chiếm lấy vị trí của mẹ? Cha mẹ đã tạo ra cuộc sống cho cá
nhân tôi, bây giờ cả 2 không ở với nhau được nữa, họ sắp sửa
xa lìa nhau và mạnh ai đi theo cuộc sống của riêng mình. Chỉ
khổ cho những đứa con. Kết quả của mối tình mặn nồng ngày xưa
ấy, bây giờ phải gánh lấy hậu quả của mẹ cha chúng đã gây ra:
mất tất cả tình thương ngọt ngào của một thời hạnh phúc để rồi
thay vào đây là một sự thù hận, mất lòng tin những người đã đi
trước.
Tôi sẽ là một nạn nhân như thế ấỵ. và rồi tôi sắp mất đi những
gì mà tôi đã yêu quí.
Bất giác, 2 dòng lệ của tôi tuôn chảy dài hồi nào rơi xuống
làm nhòe đi cả một trang thơ của mẹ mà tôi đã buông rơi nằm
trên gối. Tôi nhắm mắt lại mà cứ nghe tim mình thổn thức. Rồi
tôi sẽ thuộc về ai? Bên cha sẽ mất mẹ hay là còn mẹ mà thiếu
cha? Rồi cuộc sống sẽ ra sao với một người đàn ông hoặc người
đàn bà lạ nào đó sẽ thay cha, thay mẹ tôi. Không! Tôi không
muốn mất ai cả... mà nếu số phận tôi không may mắn thì thà là
tôi chịu đơn độc chẳng cần sống với ai cả...
Tôi chợt nghe một bàn tay nhỏ nhắn nhẹ nhàng vuốt tóc tôi: mở
choàng mắt ra, tôi chợt thấy bác Châu đã ngồi yên ở bên giường
tôi hồi nào. Trong tay bác cũng đang cầm một lá thư của me.
Buồn rầu nhìn tôi, bác Châu nói nhỏ:
- Lệ Thu! Con đừng buồn nữa, chuyện đã như thế rồi,con buồn
cũng không giải quyết được gì. Con phải cố gắng vượt lên số
phận để lo cho tương lai con.. Bác cũng biết là ba mẹ con rất
thương con, nhưng đúng ra ba mẹ con không nên giành giựt con
như thế.
- Nghĩa là sao hở bác?
- Vì càng giành lấy con thì càng dễ mất con chớ chẳng ích gì
cả.
Rồi bác Châu cười:
- Cũng chưa hẳn thế, trừ trường hợp chính con muốn. Đừng trách
móc cha mẹ, vì con người trời sinh ra là đã có bản tính ích kỷ
muốn chiếm hữu lấy cái mà mình thích. Đó là bản năng như chúng
ta phải ăn phải ngủ thế thôi! Vỗ nhẹ lên vai tôi, bác tiếp:
- Đừng nên trách móc điều đó nghe con, vì chính con, con cũng
có bản năng như thế.
Tôi hơi bối rối, những lời nói của bác Châu đã giúp tôi hiểu
lờ mờ rằng đại khái đó là những sự thật mà tôi phải biết. Khi
đứng lên, bác Châu an ủi:
- Đừng có ngồi yên ở đây mà nghĩ quẩn, đi ra ngoài vài vòng độ
nửa tiếng trở về dùng cơm là vừa, đi đi Thu.
Tôi nghe theo lời bác Châu, đội nón lên, bước ra khỏi khu nhà
trầm mặc. Ra khỏi vườn trúc, tôi không biết mình nên đi đâu.
Tú đang trồng cây trên mảnh đất thí nghiệm. Ông Viên đang sới
đất bón phân. Ông Viên là một loại người vai u thịt bắp thấy
rõ. Tôi bước tới đứng nhìn. Tú ngẩng đâu lên nhìn tôi chào:
- Chào cô Thu.
Tôi đáp lại:
- Dạ, chào anh.
Rồi hắn tiếp tục công việc của hắn, lật từng chiếc lá lên xem
xét. Trên nền đất, những chiếc bảng nhỏ ghi chú được cắm trước
mỗi loại cây. Tú thỉnh thoảng lại cúi xuống ghi chú. Tôi hỏi:
- Anh làm gì thế?
- Ghi xem mức tăng trưởng mỗi ngày của nó. Chỉ một cái cây tôi
hỏi:
- Cây nào là cây gì thế?
- Cây kim ngân huệ, một loại thuốc mà lá và hoa nó được dùng
để làm thông đường tiểu tiện.
- Còn cây kia?
- Thiên môn đông, dùng để cầm máu.
Tôi tò mò:
- Anh nhớ hết tên chúng à?
- Vâng.
Tú cười, hắn đưa tay chỉ từng cây một
- Đây là ý như, đây là cỏ ích mẫu, đó là câu kỷ, xài hồ, hương
phụ, đằng kia là bát giác liên, bán hạ và mãn xà lạ.. Ở xa hơn
nữa là huỳnh cầm, tiên du, nga thuật...
Tôi chẳng thấy thú vị với mấy cái tên khó nhớ đó, nhưng tôi
ngạc nhiên không hiểu tại sao Tú có thể nhớ hết như vậy. Cắt
ngang lời Tú tôi hỏi:
- Tất cả mấy cây trồng ở đây đều là cây thuốc hết à?
- Vâng.
- Trồng cây thuốc để làm gì?
- Chúng tôi đang thí nghiệm, nếu thành công thì phải biết. Cô
tính thử xem mỗi năm cả xứ ta tiêu thụ bao nhiêu thuốc bắc.
- Đã thành công chưa?
- Bây giờ thì thật khó nói, nhưng nhìn vào sự tăng trưởng đều
đặn của chúng tôi thấy chắc cũng không đến đỗi nào, có điều là
không hoàn toàn như ý.
- Cứ quần quật suốt ngày với đất cát, anh không thấy nản à?
Tú nhìn tôi không nói gì cả nhưng tôi tìm thấy trong ánh mắt
kia một sự kinh ngạc. Có một đám mây mờ sương phớt lên mặt Tú,
chiếc nón rộng vành, màu da đỏ vì nắng nung và chiếc áo cộc
kia không thể phủ lấp được vẻ thông minh của chàng. Tú có vẻ
tế nhị và Phong thì phóng khoáng. Tú nói:
- Tôi đang cố gắng chinh phục đất đá. Ngoài sự chinh phục này,
tôi không đủ khả năng để chinh phục những thứ khác. Miệng anh
chàng hằn lên nỗi chua xót. Cúi đầu xuống, Tú tiếp tục công
việc trong khi tôi đứng đấy bất động. Trực giác cho tôi thấy
có một nỗi niềm trắc ẩn trong tim Tú. Chàng có vẻ buồn, mà tại
sao lại chịu khó làm việc thế? Có phải chăng kỷ niệm nào đó đã
không phai và dằn vặt chàng mãi? Câu chuyện đó thế nào? Xã hội
loài người phức tạp chứ không đơn giản như ta tưởng. Tôi đứng
thêm một lúc nữa và thấy Tú có vẻ bất cần để ý đến sự hiện
diện của tôi, nên tôi cũng cảm thấy chán và quay lưng lại, trở
về khu nhà trầm mặc. Từ ngày hiểu được bản tính nóng nảy của
bác , tôi rất chú ý đến giờ dùng cơm.
Chưa vào tới vườn trúc, thì một chuyện lạ khiến tôi phải dừng
chân. Tôi thấy đám dê của nhà ho. đang về chuồng. Và cô bé
chăn dê đang đi giữa đám dê, vừa đi vừa khóc. Cô bé này tên là
Sao Ha, nhà ở trong sóc dưới chân núi nhưng thật nghèo, phải
đi trông dê để kiếm tiền về giúp đỡ cha me. Ngay ngày thứ hai
đến nông trại, tôi đã làm quen với cô bé dễ thương ấy. Sao Ha
có nụ cười ròn tan, lúc nào cũng tung tăng chạy nhảy. Tôi chưa
hề thấy cô ấy khkóc bao giờ. Bước đến kéo Sao Ha lại tôi hỏi:
- Có chuyện gì vậy?
Cô bé khóc đến đỏ hoa cả mắt, nó vừa nức nở vừa nhìn tôi nói:
- Dệ..Dệ..nó!
- Dê nó làm sao? Nhìn đám dê vẫn ngoan ngoãn đi theo sau, tôi
hỏi:
- Nó húc em ha? Có một lần đứng trên sườn núi tôi đã nhìn thấy
lũ dê húc nhau.
Sao Ha lắc đầu:
- Không phải, mà là thiếu hết một con dê, em không dám về đâu!
Thiếu một con, ông chủ đánh em chết.
Tôi ngạc nhiên:
- Thiếu à! Thế em có đếm sai không?
Sao Ha vẫn khóc thút thít:
- Không đâu, em biết mà, con dê bị mất là con dê mới đẻ tháng
trước, em lùa chúng đến bờ suối, rồi nằm dưới gốc cây ngủ
quên, đến lúc thức dậy thì nó đã biến mất, em biết, người ta
đã ăn cắp dê của em rồị. hu hu!
- Em có tìm khắp nơi chưa? Biết đâu nó chạy đâu đó rồi lạc
đường về?
- Em đã tìm rồi nhưng không có. Con dê nhỏ này không bao giờ
rời me, chắc chắn người ta đã bắt trộm. Em không dám về đâu,
ông chủ đánh chết.
Điệu bộ nó y như nó vừa làm một việc tày trời, bây giờ lại sợ
ông chủ đánh. Nhìn nó khổ sở, tôi không đành lòng nên vỗ nhẹ
vai con bé bảo:
- Em cứ lùa dê vào chuồng đi, để chị đi đến bờ sông tìm hộ cho
em nhé?
Bo? Sao Ha đứng đấy, tôi bước nhanh ra bờ sông. Buổi chiều, cả
cánh đồng chìm đắm trong màn sương. Mặt trời lặn mất chỉ còn
để lại những đám mây chiều vàng ánh. Tôi đã quên mất những ưu
phiền vì bức thư của me. Bây giờ điều cần nhất là phải tìm cho
ra chú dê con. Cạnh bờ sông, cỏ mọc thật cao, thật dầy, tôi
bắt chước tiếng kêu của Sao Ha gọi dê, tôi đi mãi vào rừng.
Màn đêm âm thầm tràn đến. Bóng mặt trời đã lặn mất, gió đêm
thì thào câu chuyện của bóng đêm. Đám ráng chiều ban nãy giờ
đã bàng bạc xám. Đến tối rồi, tôi phải về nhà nhưng còn con
thú vô tội kia thì sao?
Tiếp tục lục lọi trong bóng đêm, chăm chú quan sát từng dấu
vết trên cỏ. Cứ thế tôi đi càng lúc càng xa, mãi đến lúc tôi
phát giác ra chung quanh mình màn đêm đã vây chặt, tôi mới
chịu bỏ rơi việc tìm kiếm.
Quay đầu lại, tôi trở về. Bóng tối không để tôi nhận rõ được
hướng đi. Nếu cứ tiếp tục thế này sợ rằng nông trại không hẳn
chỉ thất lạc chú dê con mà có thể thất lạc luôn cô khách nhỏ.
Tôi bướt khá nhanh chân sợ lại trễ giờ cơm, bác quát tháo ầm
ĩ. Tôi định đi ngõ tắt xuyên qua rừng cây để trở về nông trại.
Đêm trong rừng thật tối, thật dễ sợ, bóng cây ngã dài, lay
động như rướn người ra kêu gọi, như than van. Vừa bước về là
tôi đã thấy hối hận ngay. Những hàng cây ban ngày hùng vĩ cao
ráo bao nhiêu bây giờ giữa đếm tối nó càng âm u dễ sợ bấy
nhiêu. Có tiếng động sột soạt trong bụi cỏ. Rắn chăng? Tim tôi
càng lúc càng đập nhanh. Cỏ gai bên dưới bắt đầu chận bước
chân phập phồng, một mảnh gai đâm vào chân làm tôi phải dừng
lại nhổ. Nhiều lần như thế. Khi vừa nhổ xong mảnh cuối cùng,
vừa đứng lên, tôi điếng hồn vì trước mặt tôi một bóng người
cao lớn đang chắn ngang. Tôi không nhìn rõ mặt, chỉ biết rằng
ông ta cao lớn dễ sơ. Không cần đắn đo gì nữa, tôi quay người
lại, định chạy, nhưng ông khổng lồ kia đã đưa tay bắt chặt vào
da thịt làm tôi đau buốt. Tôi vùng vẫy, tôi hét to, ông khổng
lồ nói một tràng nghe không hiểu gì cả. Trong lúc tôi sợ muốn
điếng người, thì bỗng nhiên ông khổng lồ lại buông tôi ra. Mất
thăng bằng, tôi ngã nhoài xuống, mắt nhìn lên chạm phải khuôn
mặt của ông ta. Ánh sáng trong rừng tuy không rõ lắm, nhưng
cũng đủ để tôi nhìn thấy bao nhiêu là vết xăm trên khuôn mặt
dữ dằn. Trời! Phong đã bảo là những người Thượng nào có xăm
mặt càng nhiều thì càng hung dữ, càng anh hùng, vì xăm mặt có
nghĩa là đã giết người. Đối diện với một người như thế sao tôi
chẳng bủn rủn tay chân chứ?
Ông khổng lồ vẫn gầm gừ. Nhìn khuôn mặt đen húa xương kia, tôi
có cảm giác như mình đang đối diện với con đười ươi to lớn ở
rừng già Phi Châu. Lồm cồm ngồi dậy, tôi lại quay đầu chạy
miết. Gã quái nhân chẳng chịu buông tha, gã đuổi theo. Tôi cố
chạy thật nhanh, bất chấp cả gai góc chỉ mong sao thoát khỏi
móng vuốt của gã. Mặc cho cành lá xé rách váy, mặc cho gai góc
đâm vào vai, tôi cứ chạy bất kể sống chết.
Sau cùng rồi tôi cũng ra khỏi rừng, đến bờ sông thấy có người
đàn ông đi tới, tôi gọi:
- Bớ! Bớ người ta!
Tôi chạy ngay tới người đó, tôi chỉ thấy nguy hiểm khi đứng
một mình trong rừng sâu. Tiếng gọi của tôi có lẽ làm cho ông
ta chú ý, ngừng bước lại. Ông quay lại, tôi kiệt sức hoàn toàn
muốn ngã quỵ xuống. Nhưng cũng cố sức ngoắt tay gọi:
- Ông ơi ông...
Tôi chưa kịp nói dứt lời, thì đã bị trượt chân ngã quỵ xuống.
Trời tối quá không làm sao nhìn ra được địa thế, nên tôi đã bị
sụp hố rơi tỏm xuống vũng nước nằm giữa đám cỏ và đá sỏi. Cái
té làm tôi đau điếng người nhưng chưa kịp thở thì đã nghe có
tiếng người chạy đến. Nhắm mắt lại, tôi buông xuôi, dù thế nào
đi nữa tôi cũng không thoát khỏi tay người rừng rú này được
Một giọng nói thật lạ vang lên:
- Cô té có sao không?
Tôi cảm thấy yên tâm, mở mắt ra nhìn vị cứu tinh của mình.
Trời tối quá, không nhìn thấy rõ mặt, nhưng ánh mắt có vẻ đang
lo lắng nhìn tôi.
- Có 1 ngườị. ngườị. thượng!
- Người thượng ạ? Thượng thì thượng có gì đáng sợ đâu?
Tôi ấp úng:
- Nhưng ông ấỵ. ông ấy đuổi theo tôi, muốn bắt tôi. Ông ấy là
một người có xăm mặt.
Nơi bìa rừng phát ra những tiếng chân dồn dập. Người đàn ông
quay đầu lại nhìn tôi cũng ngẩng mặt lên, người thượng hung dữ
kia đang đứng nơi đó. Tôi hoảng hốt:
- Đó đó! Người đó đó!
Vị cứu tinh của tôi thốt ra một tràng tiếng thương với người
khổng lồ. Tôi không hiểu ông ấy nói gì, nhưng lại nghe người
khổng lồ đáp lại líu lo. Sau đấy vị cứu tinh tôi nói:
- Ông đã làm cho cô gái này sợ, vậy ông hãy nói rõ cho cô ấy
biết rõ ràng.
Gã khổng lồ lại tuôn ra một tràng tiếng thượng, vị cứu tinh
của tôi cười bảo:
- Tất cả chỉ là một sự hiểu lầm, ông này không có ác ý gì với
cô cả, ông ấy đang giận cô con gái, vì cô này khôNg chịu giúp
việc nhà cứ bỏ đi lông bông tối ngày. Ông ấy ra rừng tìm kiếm,
nhưng vì trời tối nhìn không rõ, nên tưởng cô là con ông ấy,
tới chừng biết là không phải, buông ra thì cô lại bỏ chạy. Ông
ấy nói không rành tiếng ta, nên chỉ biết dùng tiếng thượng để
giải thích. Nhưng càng giải thích thì cô càng chạy nhanh, vì
vậy mới có sự hiểu lầm, cô rõ rồi chứ?
Tôi nhìn về phía người khổng lồ với ánh mắt hoài nghi trong
khi vị cứu tinh của tôi khoát tay:
- Thôi được rồi, ông đi đi, để tôi đưa cô này về.
Tên người thượng lập tức quay người đi, chẳng mấy chốc bóng gã
đã khuất trong màn đêm. Tôi nhìn người trước mặt, bối rối vì
đã làm phiền ông ta cái chuyện không đâu. Phủi phủi bụi trên
áo, tôi đứng dậy, may quá chân tôi chưa gãy, chỉ bị trầy da
một tí trên đùi. Vị cứu tinh hỏi:
- Sao? Có bị thương không?
- Không sao cả, chỉ hơi trầy. Tôi chưa hề sống ở vùng cao
nguyên.
Vị cứu tinh cười:
- Nếu như tôi đoán không lầm thì cô là khách của nông trại Lệ
Thanh phải không?
- Sao ông biết? Vâng, tôi đến nông trại ở đã được bốn hôm nay.
Giọng thật lạnh lùng, nhưng ra vẻ biết tôi thật rành rẽ:
- Có phải cô là Lệ Thu không?
Tôi càng ngạc nhiên:
- Ông là ai mà biết rõ cả tên tôi?
Vẫn thản nhiên ông ta tiếp:
- Tôi đã gặp mẹ cô và nghe nói nhiều về cô. Vợ chồng ông cũng
có nó i cho tôi biết là cô sẽ ở đây suốt một thời gian. Vả lại
ở những vùng quê hẻo lánh thế này,có bất kỳ một ai lạ cả vùng
đều biết ngay, huống hồ lại là cô!
- Nhưng tôi vẫn chưa biết ông là ai?
- Tôi ở dưới chợ, tôi tên Bạch
Tôi mở to mắt nhìn ông ta:
- Thế ông là Vi Bạch, hiểu trưởng trường phổ thông huyện phải
không? Tôi cũng nghe tên ông lâu rồi.
- Thế à?
- Vâng, vì nông trại tràn ngập hình ảnh của ông khắp nơi đâu
đâu cũng có thể nhìn thấy tên ông cả.
Ông Bạch cười, nụ cười hảm vẻ tư lự:
- Thôi được rồi, bây giờ chúng ta về nông trại Lệ Thanh nhé?
Tôi cũng định đến đấy chơi, giữa đường thì gặp cô.
Chúng tôi cùng trở về nông trại, chiếc váy tôi rách một lỗ to,
trên cánh tay đầy vết gai sước, chân lại bị trầy da, trông
thật thểu não. Ông Bạch nhìn tôi nói:
- Đúng ra ông bà chẳng nên cho cô vào rừng, khi cô còn chưa rõ
đường đi thế này.
Tôi nói:
- Tôi đi thế này hai bác tôi cũng chả hay biết gì cả. Ở nhà
mất hết một chú dê con, tôi định đi tìm.
- Dê con? Nó phải đi theo dê mẹ chứ?
- Nhưng Sao Ha nói là đã bị người ta trộm mất.
Ông Bạch lắc đầu:
- Trộm à? Ở đây làm gì có trộm? Nếu có thì là đào trộm một củ
khoai hay chặt một cây mía là quá lắm rồi.
Tôi không nói gì nữa, chỉ cảm thấy ông Bạch vẻ như một người
cha hiền, lúc nào cũng sẵn sàng che chở cho lũ con. Đám dân
lành ở đây cần được bảo vê. Giọng nói trầm và bình thản của
ông mang đến cho người nghe một sự tin tưởng. Sa mù buổi tối
vây quanh cánh đồng dưới thung lũng. Những cánh sao trời bắt
đầu xuất hiện, trăng cũng tỏ, đuổi xa đi bóng đêm trên đồng
cỏ. Cái đẹp của đêm trăng thật tuyệt diệu
Từng hàng cây thẳng tắp in chiếc bóng đen của mình lên nền
trời xa. Quay đầu lại nhìn ông Bạch, dưới bóng trăng mặt ông
thật rõ nét. Một khuôn mặt đầy nam tính, trên chiếc cằm vuông
đã bắt đầu xuất hiện nếp nhăn, mắt trông xa vời như chứa đựng
cả bầu trời bí mật Con người đã đến lúc mà thời gian và cuộc
sống đã bắt phải trưởng thành, tuy không chứng minh được điều
mình nghĩ là đúng, nhưng tôi hiểu. Có lẽ thấy tôi nhìn quá
chăm chú, ông Bạch quay sang cười:
- Cô đang ngắm tôi đấy à?
- Vâng!
- Thế cô đã thấy được gì?
- Tôi thấy ông giống một quyển sách khó đọc.
Ông Bạch cười rồi lắc đầu:
- Có phải cô đã xem quyển " Ông già Khốt-Ta-Bít" rồi phải
không?
Tôi dạ nhỏ một tiếng. Nghĩ đến câu nói vừa rồi của mình, tôi
xấu hổ vô cùng. Ông Bạch nhìn tôi một cách thích thú.
- Mỗi người đều là một quyển sách khó đọc, cô cũng thế. Tôi
biết cô chẳng giản dị như bề ngoài của cô đâu, mà cô còn có
những bực mình, những phiền muộn, rối rắm riêng tư. Đúng
không? Nếu cô tìm hiểu nhiều về người khác, cô sẽ thấy được
nhiều điều mà cô chẳng ngờ được.
- Thế ông có thích tìm hiểu không?
- Tôi tìm hiểu người khác quá nhiều, nhưng bây giờ không còn
thích thứ nữa. Nụ cười trên môi ông Bạch chợt tắt:
- Đến bao giờ cô lớn lên bằng tuổi tôi, cô sẽ chẳng thích thú
gì khi làm việc đó, vì có khi chỉ cần nhìn người ta là cô hiểu
ngay.
Chúng tôi bước vào cổng khu nhà trầm mặc. Tôi nghĩ đến những
bức họa, nét chữ và tài điêu khắc của ông ta. Ông Bạch là
người thế nào? Một ẩn sĩ chán đời? Một triết gia? Một nghệ sĩ?
Hay là một kẻ sĩ nhất thời? Một người bất đắc chí? Nhìn ông ta
mà tôi quên cả bước.
Có tiếng chim kêu, rồi tiếng đập cánh, một chú chim bay tới
đậu lên vai ông Bạch., đó là con Ngọc Thúy. Ông ôm con vật để
nó đậu trên đầu ngón tay:
- Đây là con vật dễ thương, đẹp lắm phải không? Cô xem xem, nó
còn xứng đáng để ta tìm hiểu hơn là tìm hiểu loài người. Nó,
cũng là một quyển sách nhưng khác ở chỗ là quyển sách đẹp chứ
chẳng phức tạp như con người.
Từ con người ông tỏa ra một sức hấp dẫn lạ lùng. Con người này
thế nào? Quyển sách ra sao? Tôi cảm thấy thích thú muốn tìm
hiểu, vì nó khó đọc
Bước ra khỏi đường mòn, tôi còn nghe có tiếng khóc.
- Con không biết! Xin đừng đánh con.
Tôi hét lên:
- Đúng là giọng Sao Ha, bác đang đánh nó!
- Chúng ta phải chạy nhanh đến can mới được
Ông Bạch bảo, đoạn chạy nhanh vào nhà. Con Ngọc Thúy vỗ cánh
bay đi. Chúng tôi đã đến trước cửa Khu nhà trầm mặc.(Hết Chương
3 ... Xin xem tiếp
Chương 4) |