Hè về cuộc sống vui tươi
Cá tung tăng lội, mây trôi lững lờ
Bạc tiền như nước chảy vô
Mẹ càng duyên dáng cơ hồ trẻ ra
Nín đi con chớ khóc la...
Thơ - Nguyên tác : George Gershwin - Dubose Heyward
Phỏng dịch : Vũ Quốc
Thế đấy, đã vào hè, nhưng tôi chẳng thấy "cuộc sống vui tươi"
tí nào ! Tôi ngồi ườn ra ghế đá công viên - "ngồi ườn ra"
không phải là một từ dùng sai chỗ, chẳng qua để dễ nghe một
chút. Tôi ngồi trên ghế băng dài chiếm chỗ gần hết chiếc ghế,
hai chân xoạc ra, hai tay duỗi dài trên thành ghế . Tôi hình
dung nếu có ai đi qua hẳn là sẽ trố mắt nhìn rồi lắc đầu bỏ
đi. Tôi không phải là một cảnh quan xinh đẹp đáng nhìn ở đây.
Quần áo bẩn thỉu. Ba ngày chưa tắm giặt và dưới sức nóng,
tôi đoán cái mùi từ người tôi bốc ra càng khó ngữi. Nhưng
bạn nên ngữi mới đánh giá đúng, chứ nhìn thì vẫn chưa đủ.
Tôi cầm chai rượu táo pha cồn và mỗi khi há miệng tôi lại
trút cái thứ thuốc độc đáng nguyền rủa ấy vào miệng, một ít
tràn qua môi vương vãi trên áo jacket - càng bốc mùi nhiều
hơn.
Trời nóng bức không nên mặc nhiều quần áo, thế nhưng người
người đi lại trên đường vẫn cứ diện vào sơ mi và áo khoác
ngoài trước cái nóng mùa hè. Cũng nên thấy rằng một số người
không ăn mặc như thế, hãy tưởng tượng nếu họ trông thấy
những thứ trên người của tôi đang mặc chắc cũng lộn mửa. Cho
dù giặt kỹ vẫn còn thấy kinh khủng, cái quần không vừa với
một người có số đo lưng như tôi, cà vạt thắt lòng thòng như
dây treo cổ. Một chiếc sơ mi cũ kỹ, chắc đã được mặc từ đời
ông đời cha cũng nên. Không cần nói cũng biết là không có cổ
áo. Còn chiếc áo jacket thì khỏi nói, không chỉ không hợp
với chiếc quần đang mặc, mà còn sờn rách nhiều chỗ, mặc cho
ánh nắng xuyên qua . Đôi giày há mỏm, một chiếc mất cả đế.
Còn vớ thì tốt nhất đừng nên nhắc đến. Bẩn thỉu như tổ đĩa,
cả hai đều như thế.
Sau nhiều ngày tìm kiếm Adrian, tôi trông như thế này đây.
Tuần rồi, cha anh ấy đến gặp tôi, một người đàn ông mập mạp,
mặt đỏ gay, để ria mép, có hàm răng đen xỉn. Trông ông ấy
giống như một kẻ uống quá nhiều rượu, hút quá nhiều thuốc lá
- tất nhiên người ông ta bốc lên chẳng khác gì cái mùi tìm
thấy trong chiếc gạt tàn. Ông ta khập khiểng đi vào văn
phòng mé chân phải còn có thêm chiếc gậy chống thật to.
"Tôi đã được nghe nói về anh", người đàn ông nói cộc lốc.
Giọng nói hách dịch, thô lổ.
Tôi nhìn ông ta, chờ đợi ông nói tiếp. Ông ta có nói tên
mình nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ gật đầu cho phải phép.
"Và tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông... ?"
"Ponting", ông ta nói gọn lỏn làm như là tôi đã biết rõ cái
tên ấy rồi.
Bỗng nhiên tôi nhớ ra, "Có phải ông Ponting ở hãng sơn
Ponting ?"
Người đàn ông gật đầu và cặp môi thâm xịt nở nụ cười thỏa
mãn. Đáng thương thay, cặp môi ấy lại phô ra hàm răng đen
kịt vì bám khói thuốc. "Chính xác như thế", người đàn ông
nói.
Tôi đã có ít nhiều ấn tượng. Sơn của Ponting tất nhiên nổi
tiếng cả nước sau vài chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên ti
vi, ở đó một con chó thật to đã được huấn luyện, cắn chiếc
cọ sơn giữa hàm. Không biết sơn tốt cỡ nào nhưng càng quảng
cáo nhiều thì có nhiều người biết đến. Quả thực con chó
trông rất dễ thương. Người ta biết đến con chó nhiều hơn là
thương hiệu hãng sơn.
"Thưa ông Ponting, có vấn đề gì ạ ?"
Gương mặt người đàn ông tối sầm, ngay lập tức ông ta trông
giống như một gã chủ hiệu thực phẩm ngoài chợ đang nổi lôi
đình vì một thằng bé lấy cắp quả táo bỏ chạy, hơn là một ông
chủ hãng sơn đáng giá bạc triệu.
"Thằng Adrian là con trai tôi", người đàn ông nói.
Tôi gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Lại chuyện con trai, tôi lặng
thinh, chuyện lớn rồi đây.
"Nó bỏ nhà đi rồi", người đàn ông nói tiếp.
"Sao ông không báo cảnh sát", tôi gợi ý.
"Tôi không thích", người đàn ông nói,"Anh thấy đấy, nó mười
chín tuổi rồi còn gì. Đủ trưởng thành để tự quyết định mọi
chuyện".
Tôi lại gật đầu, "Chắc là có nguyên nhân gì đó. Có lẽ là cãi
nhau. Tôi cần biết rõ chi tiết hơn, thưa ông".
Đó là một việc khó, giống như tìm kim đáy bể, nhưng ngẫu
nhiên tôi có tấm hình chàng trai. Arian là chàng trai trẻ ở
đại học, học khá xuất sắc năm thứ hai, có triển vọng tốt.
Nhưng sau đó thì sự việc chuyển sang một hướng khác, "Nó đi
chơi với đám du thủ du thực ấy", tất nhiên điều ấy làm ông
bố Ponting thất vọng. Có dấu hiệu anh chàng nghiện ma túy -
Ồ, có 90% sinh viên chưa tốt nghiệp đều nếm qua thứ ấy bằng
cách này hay cách khác, tôi chẳng hề ngạc nhiên vì điều ấy.
Phải có "chuyện rắc rối" gì đó giữa những người trong gia
đình như cha mẹ, anh chị em với nhau mà không tiện nói.
"Tình cờ", ông Ponting nói, "tôi biết được chuyện. Chúng tôi
cãi nhau kịch liệt và nó nó bỏ nhà đi mất. Chúng tôi tưởng
là nó về trường đại học, nhưng tìm ở đấy không thấy nó. Từ
đó đến nay tôi không nghe gì về nó nữa - chuyện ấy xảy ra
cách đây 6 tuần".
"Lần cãi vả sau cùng xảy ra khi nào, thưa ông ?"
"Ồ, chắc anh cũng hiểu. Chúng tôi, bên nào cũng nói những
điều mà thực tâm không muốn nói như thế".
"Chính xác là nói gì ?", tôi hỏi.
Ponting đằng hắng. Hình như người đàn ông này đang cân nhắc
chuyện gì đó. "Adrian nói nó sẽ sống cuộc sống của riêng nó.
Tôi bảo nó không sống nổi nếu không có tiền của tôi, cả đời
nó tôi đã tốn bao nhiêu tiền của. Nó không công ăn việc làm,
chẳng có năng lực gì thật sự, không thích kinh doanh, không
biết vận dụng. Cái gì cũng không hết, tất nhiên sẽ bị đào
thải. Nó nói nó có thể làm mọi việc mà không cần đến tôi,
không cần tiền của tôi. Thế là nó bỏ đi".
"Cậu ấy có tiền không ?", tôi hỏi, "thẻ tín dụng chẳng hạn,
hoặc vay mượn từ bạn bè, họ hàng, hoặc của mẹ ?"
Ponting lắc đầu, "Con tôi, tôi biết. Nó chẳng có gì cả".
"Ông nghĩ cậu ấy có khả năng đi đâu ? Cậu ấy có thể ở nhờ
với ai đó được chăng ?"
"Chúng tôi đã cố tìm mọi chỗ. Bạn bè nó. Không có kết quả.
Tôi nghĩ nó đang lang thang ngoài đường, có lẽ ở đâu đấy
trong thành phố London này".
"Thôi được, ông Ponting, tôi sẽ cố hết sức mình".
Sau đó chúng tôi bàn thêm về điều kiện, mà người đàn ông mau
chóng chấp nhận, sau đó bàn chi tiết về cách thức liên lạc,
hỏi tên và địa chỉ bạn bè Adrian.... và người đàn ông ký vào
bản hợp đồng. Người đàn ông trao tôi một tấm hình của
Adrian. Thoạt nhìn, tôi thấy ngay đó là một thanh niên có
gương mặt tươi vui, mắt xám, tóc màu vàng nhạt, nhưng nụ
cười - nếu nhìn kỹ chỉ là sự vui tươi giả tạo.
Ponting đứng dậy sắp sửa ra về thì tôi ngăn lại, "Còn một
điểm cuối cùng thưa ông", tôi hỏi, "lần cãi nhau cuối cùng
thực chất là cãi về chuyện gì ?"
Người đàn ông vờ vịt khoác tay cố né tránh câu hỏi, "Anh
biết rồi đấy", người đàn ông đáp, "toàn là chuyện gia đình
thôi".
"Tôi không biết gì cả", tôi nói, "nhưng tôi cần biết. Có thể
đó là yếu tố quan trọng".
"Tôi không nhớ nữa", người đàn ông đáp, ngay cả khi biết
rằng ông ta nói dối tôi cũng không nài ép thêm.
Vậy là tôi có mặt ở đây, một mình lang thang trên phố, giống
như một kẻ không nhà để tìm cái kẻ bất cần đời kia.
Có nhiều việc cần phải suy tính, đi đâu, làm gì, quan trọng
hơn là, cái gì không nên làm. Tránh mặt ai, tìm ở những chỗ
an toàn được mệnh danh là "khu vực xanh", đơn giản chỉ có
nghĩa là nơi không có những nguy cơ rình rập. Nơi tôi đang
ngồi là một trong số những khu vực xanh ấy. Người người qua
lại, một số người tỏ ra nghi ngờ, một số khác chỉ ngạc nhiên
nhưng không có ác cảm. Tôi dò la một cách cẩn thận, vì không
muốn để ai biết thực chất tôi đang tìm người. Tôi có tên, có
mô tả nhân dạng, thời điểm xảy ra chuyện, dù vậy tôi vẫn
không dùng đến tấm hình. Nhưng không ngon ăn chút nào. Luân
Đôn là một chốn rộng lớn. Người tứ xứ tụ tập về đây và tôi
chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng tôi có chút ít dấu vết. Có
người thấy một gã thanh niên theo lời tôi mô tả ở khu vực
công viên Finsbury - tôi phải giải thích rằng tôi nợ người
ấy một ân huệ và muốn tìm gặp để đáp đền. Cứ hỏi bà "Trưởng
lão Cái bang", người này khuyên tôi như thế. Bà ta luôn có
mặt ở công viên. Vì thế tôi mới xuất hiện ở nơi này, lười
nhác dưới ánh mặt trời và nghĩ xem có cách nào kiếm sống dễ
dàng hơn không thì lúc ấy...
"Chúa ơi ! Matt ! Chuyện gì xảy ra với anh vậy ?"
Giọng nói của quá khứ, mặc dầu không phải là một quá khứ xa
xôi cho lắm. Cái anh chàng Paul Massingham tóc hung, người
tình cũ, tôi vẫn yêu, nếu buộc phải thừa nhận, trong tâm
tưởng của tôi. Paul dáng dong dỏng cao, mảnh khảnh và đầy vẻ
quyến rũ, còn tôi, trông chẳng ra hình dạng gì, chẳng khác
nào một cái thùng rác trong ba tháng qua. Tệ thật ! Biết ăn
nói làm sao ...
Và tôi lập tức nhìn thấy kẻ bám sau lưng Paul, hàng lô lốc
những chiếc túi nhựa đựng thứ gì đó bên trong mà tôi không
rõ - Bà "Trưởng lão Cái bang", chính là người tôi đang mong
gặp mặt - vì vậy tôi không cần phải đi đâu xa nữa. Tôi giải
thích với Paul một cách mơ hồ.
"Vì công việc", tôi lẩm bẩm nói qua kẽ răng, "Lâu lắm rồi
anh chưa có cơ hội đụng vào ai cả", lần này lời nói lớn hơn
cố tình cho người đàn bà kia nghe.
"Vì cái gì ?", Paul hỏi.
"Vì em", tôi nói lớn, "Em có thể ngồi đây một chút như bao
nhiêu người khác... ", tôi nói nhưng mắt vẫn lơ đãng, "cho
anh sờ một chút thôi", tôi nói nhỏ.
Rõ ràng Paul tỏ ra sững sốt, thậm chí là có thể nổi nóng vì
thái độ sàm sở của tôi. Nhưng Paul ngẫm nghĩ gì đó rồi nói,
"Anh phải tắm trước đã", sau đó bỏ đi một nước, không quay
lại nhìn lần nào. Lẽ ra tôi phải nhìn kỹ để đoán xem phản
ứng của Paul thế nào nhưng tôi còn có việc phải làm.
Người đàn bà được mệnh danh là "Trưởng lão cái bang" - không
ai biết tên thật của bà - đang ngồi xổm trên ghế dài kế bên
tôi, lưng dựa ra sau thành ghế để ánh mặt trời chiếu lên mặt
mình. Quanh người đàn bà này lủng lẳng những túi nhựa, màu
đen, loại túi đựng rác. Bên trong chứa những tài sản của bà
và bà trông giữ cẩn thận như sợ người khác cướp mất, sẵn
sàng nhe hàm răng đen kịt gầm gừ đe dọa nếu có ai đến gần.
Bên trong những chiếc túi ấy là tất cả những gì bà có được,
từ việc lượm lặt ở các thùng rác nếu may mắn, những món đồ
chơi gãy sứt, sách mất bìa, vật dụng bằng nhựa hư hỏng -
những gì người ta bỏ đi đều là tài sản của bà.
Bà mặc bất cứ thứ gì có được, lớp trong lớp ngoài chồng lên
nhau, làm bằng những loại vải bẩn thỉu không còn màu sắc ban
đầu bây giờ cứ xin xỉn một màu giống như đồng phục, và cái
mùi - không có gì so sánh được - cái mùi cũ kỹ giống như thứ
mùi bạn ngữi thấy trong nhà thờ đầy bụi bẩn, ẩm thấp hoặc
mùi của những quyển sách mục nát.
Bà ta chẳng hề phải lo lắng gì, ngoại trừ lo người ta sẽ
đánh cắp tài sản quý giá của bà. Bà thường phải chịu cơn đói
dày vò nhưng cô Sally Ann thỉnh thoảng cũng đến cho bà ít
súp và bánh mì. Cái giá lạnh ban đêm bà có thể chịu được, nó
là người bạn đồng hành mà bà không hề mong đợi. Sự thật là
tôi ngồi kế bên người đàn bà này, bà ta đang ngồi xổm nhe
răng gầm gừ đe dọa những kẻ không mời mà tới.
Người đàn bà đăm đăm nhìn cái chai trong tay tôi, ánh mắt
người đàn bà tươi tỉnh tỏ ra dễ thương hơn.
"Tôi khát khủng khiếp", người đàn bà nói. Cái giọng nói rời
rạc và đùng đục cứ như là bà quên nói chuyện từ rất lâu.
Tôi trao cho bà chai rượu mạnh và bà tợp một ngụm lớn, rồi
ngụm khác. Tôi tự hỏi không biết bên trong người bà có thứ
gì chưa. Bà đưa chai rượu cho tôi. "Cứ giữ lấy mà uống", tôi
bảo mặc dù đó không phải là tính cách của tôi. Thỉnh thoảng
có một cử chỉ hào hiệp thì cũng nên, nhưng rộng rãi quá đôi
khi cũng khiến người khác nghi ngờ.
"Cám ơn", bà vừa ợ vừa nói cộc lốc, lộ vẻ ngờ vực, nhưng vẫn
không nhận chai rượu. Người đàn bà nhìn tôi đăm đăm cố để
hình dung cái gì đang ở trước mắt bà. "Tôi chưa từng thấy
anh ở đây", bà nói, nỗi ngờ vực gia tăng.
Tất nhiên tôi cũng chưa từng gặp bà ta, nhưng tôi biết khá
nhiều về người đàn bà này. Mọi người đều biết bà "Trưởng lão
Cái bang", và theo lời kể lại, thì bà ta biết mặt hầu hết
những người lui tới nơi đây. Đó là lý do vì sao tôi chọn
đúng chiếc ghế đá này đúng vào thời điểm này, vì tôi biết
rằng đó là chỗ bà ta thường lui tới.
"Tên tôi là Matt", tôi nói.
"Ai hỏi tên anh", người đàn bà nói, mặc dầu tôi thừa biết bà
sẽ đem cất cái tên tôi vào một ngăn nào đó trong bộ não của
bà "Ngủ ở đâu ?".
Thì ra, điều quan trọng hơn cả cái tên chính là chỗ ngủ qua
đêm. "Trạm xe điện", tôi đáp.
Người đàn bà nhìn tôi rồi nói "Vào khu nhà kho ngủ vẫn tốt
hơn ở ngoài công viên Finsbury".
Tôi nhận ra bà ta đang cho tôi một lời khuyên. Tôi gật đầu
và cảm ơn rối rít nhưng trong lòng vẫn dấy lên nổi nghi ngại.
Một lúc sau tôi bỏ đi, sau khi mời bà uống thêm hai ngụm nữa.
Sực nhớ một điều, tôi quay lại hỏi "Gần đây bà có thấy
Adrian không ?"
Người đàn bà quệt tay lên miệng lau những giọt rượu còn sót
lại. "Tên gì kỳ vậy", người đàn bà nhìn tôi, có vẻ như để
khẳng định hơn là thái độ phê phán. "Adrian già hay trẻ ?"
"Anh chàng Adrian trẻ ấy".
Người đàn bà ắt hẳn cũng có đôi điều thắc mắc trong đầu -
hoặc ít ra tôi cũng đoán bà ta đang thắc mắc - dù vậy bà vẫn
phun ra từng câu rời rạc "Có thấy, tuần rồi", bà nói, "Đi
ngược lên phía Bắc".
Ở Reykjavik, tôi muốn điên cái đầu, hay ở Bắc Cực, hay một
chỗ nào đó xa hơn. Cái ý nghĩ đó khiến tôi gần như chết cứng
ngay lúc đó.
"Công viên Belsize".
"Có phải cái anh chàng Adrian tóc vàng", tôi kiểm chứng cho
chắc ăn.
Người đàn bà gật đầu "Đúng đấy", bà nói.
Tuyệt thật, tôi nghĩ thầm, trong khi đang đổ mồ hôi vì ánh
nắng mặt trời. Tôi tự nhủ nếu có chút ít thông tin gì về lần
cãi nhau cuối cùng của gia đình họ thì hay biết mấy. Không
có chút đầu mối nào. Dù là gay hay đàn ông chính hiệu, thì
một người sống lang thang cũng cần có khả năng và sự thích
nghi mới có thể tồn tại được.
Công viên Belsize. Một ngọn đồi dốc bên ngoài trạm xe điện
ngầm, phải đi ngược lên Hampstead Heath, rồi xuống thị trấn
Camden. Một dãy phố các cửa tiệm đối diện nhau, cửa hàng rau
quả, cửa hàng bán thức ăn chế biến sẳn, dịch vụ lữ hành,
tiệm bánh ngọt. Tôi vào con phố mua một khúc xúc xích. Người
phụ nữ sau quầy rõ ràng không mong muốn tôi bước vào cửa
hiệu sạch sẽ của bà - cũng khó trách bà ấy, nhưng bà ấy bán
hàng cho tôi mà mặt mày nhăn nhó, khó chịu
Tôi bước ra ngoài tìm một chỗ ngồi - một chỗ dành cho khách
bộ hành nghỉ chân. Một người đàn ông đứng tuổi - bề ngoài
giống như một gã có "tâm hồn tự do" (ND : dân bụi đời) - tôi
đoán thế - đang ngồi đầu ghế bên kia. Người này mặc một áo
choàng xám dài tới mắt cá chân, bên dưới là đôi giàu
xăng-đan. Bên trong, những ngón chân đen xì trông giống như
nhúng bùn, còn mắt cá xây xát. Tôi ăn khúc xúc xích, lấy
chai rượu táo pha cồn trong túi, chuẩn bị trò chuyện, tôi
đưa chai về hướng người ấy.
"Thứ này sẽ giết anh mất", người đàn ông nói với vẻ hiểu
biết. Đôi mắt nhìn tôi, cặp chân mày nâu nhíu lại. Trông
người này không khỏe mạnh lắm. Nước da xanh mét trên gương
mặt lấp lánh mồ hôi, một ngày nóng bức thế này mà người này
vẫn mặc áo khoác ngoài dày cộp.
"Anh nói đúng", tôi nói, "không ngại uống một ngụm chứ ?".
"Nếu muốn tự sát, thà rằng tôi về nhà chui đầu vào bếp ga
còn hơn".
Tôi không có ý định chỉ ra rằng, ga đốt không phải là thứ
giết người tức thì, nó phải tràn ngập gian phòng cho tới khi
không còn oxy rồi mới làm cho bạn chết ngạt. Rõ ràng người
này không phải là dân bụi đời như cái vẻ bề ngoài. Tuy nhiên
điều ấy vẫn có thể đúng, nếu như người đàn ông là "khách mối"
của ghế đá này, nơi có thể ngắm nhìn mọi thứ diễn ra, hiểu
biết và ít nhất là có chú ý sự việc diễn ra xung quanh.
"Xin lỗi ông", tôi nói, "Ông có thấy đám con trai hò hẹn
quanh đây không ?"
Người đàn ông vênh mặt hỏi, "Cái gì khiến anh nghĩ tôi tới
đây kiếm trai ?", gã nói, một câu nói gai góc nếu không nghĩ
đó là phản ứng tức giận của người đàn ông.
Tôi nhận ra mình đã phạm sai lầm. "Ồ không, tôi không có ý
đó. Tôi đang tìm người. Có người nhìn thấy người tôi tìm ở
công viên Belsize. Tên cậu ấy là Adrian".
"Tôi không quen cái tên ấy. Người này trông thế nào ?"
Tôi lấy tấm hình trong túi đưa cho người đàn ông. Người này
rụt rè cầm lấy nhưng sau khi liếc sơ qua thì người đàn ông
xăm xoi nhìn kỹ hơn, sắc mặt biến đổi và gần như muốn nhảy
dựng lên. "Có đấy", người đàn ông nói, "Tôi có thấy người
này. Tôi nhớ màu tóc. Trông anh chàng không vui vẻ gì. Tôi
nghĩ anh ta sợ thì đúng hơn. Thỉnh thoảng cứ ngoáy ra sau
nhìn, cứ như là có ai theo dõi anh ta vậy".
"Ông gặp lúc nào ?", tôi hỏi.
"Sáng nay. Cách đây vài giờ, tôi đoán thế. Chắc là vào
khoảng 7 giờ".
"Cậu ấy đi đâu ?"
"Lên đồi Rosslynl. Đi về phía Hampstead". Người đàn ông hất
hàm về bên phải ra dấu.
Tôi định đứng lên nhưng chợt nghĩ ra một điều, "và ở chỗ đó
sao ?", tôi hỏi.
"Cái gì ở đó ?"
"Người theo dõi cậu ấy đó ?"
"Tôi không biết nhiều như thế đâu. Mà cũng không thấy ai cả",
người đàn ông dừng lại một chút rồi nói tiếp, "ngoại trừ
anh".
Tôi mỉm cười, đứng dậy.
"Ừ, có lẽ tôi cần uống một chút", người đàn ông nói.
Thấy tay người đàn ông run run, tôi đưa chai rượu cho người
này.
Đồi dốc, trèo lên ngọn đồi làm tôi mướt mồ hôi. Tôi đi qua
một bệnh viện ở phía tay phải, đi theo con đường xuống bên
dưới. Vừa qua khu Flask Walk thì thấy có hai người đàn ông
dựa lưng vào tường bên ngoài quán rượu "The Flask". Hai
người này tay cầm hai ly bia lớn, trông phát thèm. Trông họ
vô hại nhưng cũng khó bắt chuyện.
"Xin chào", tôi nói, "tôi đang tìm người này, nếu có thấy
vui lòng chỉ giúp", tôi đưa tấm hình cho họ xem.
Họ nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ, đây không phải là lần đầu
tiên, ước gì tôi về nhà được để thay đổi cái bộ dạng "ma cà
bông" của mình để trở thành một quý ông lịch thiệp, bây giờ
ai nhìn tôi mà không ngờ vực mới lạ.
"Tìm để làm gì ?", một người hỏi.
"Ê này, không phải là cái thằng hỏi anh mấy giờ rồi chứ ?",
người kia nói, rõ ràng có ý biếm nhẽ, "còn anh thì bảo tự
mua đồng hồ mà xem đấy sao ?".
"Xin cảm ơn các ngài", tôi nói với vẻ thản nhiên để che dấu
giọng mỉa mai và đi ngay lập tức, theo sau là tiếng la ó,
chửi rủa "Đồ dâm đãng, lũ đồng dâm khốn nạn". Nhưng lời chửi
rủa ấy không có ý đe dọa và không ai muốn đuổi theo.
Đoạn bên trên con đường là quán rượu "William đệ tứ" nhưng
tôi bỏ qua. Trông chỗ đó cũng thiếu lịch sự và e rằng tôi
cũng không nhịn được. Tôi cố nhìn vào sân nơi mấy tay bợm
nhậu đang ngồi bàn văng tục ồn ào. Adrian, người tôi tìm
chắc không ở trong số những người kém văn hóa này.
Tôi rẽ phải tại trạm xe điện Hampstead, ngẫu nhiên đây là
chỗ sâu nhất trong toàn bộ hệ thống xe điện ngầm ở Luân Đôn,
và dẫn tới đường Heath bên trên, hơi dốc một chút, tuyến
đường xe điện ngầm sẽ chạy tới hồ Round, lâu đài Jack Straw
để lên đường Health.(Hết Phần 1 ... Xin mời đón xem tiếp
Phần
2) |