| Hè về cuộc sống vui tươi Cá tung tăng lội, mây trôi lững lờ
 Bạc tiền như nước chảy vô
 Mẹ càng duyên dáng cơ hồ trẻ ra
 Nín đi con chớ khóc la...
 
 Thơ - Nguyên tác : George Gershwin - Dubose Heyward
 Phỏng dịch : Vũ Quốc
 
 Thế đấy, đã vào hè, nhưng tôi chẳng thấy "cuộc sống vui tươi" 
					tí nào ! Tôi ngồi ườn ra ghế đá công viên - "ngồi ườn ra" 
					không phải là một từ dùng sai chỗ, chẳng qua để dễ nghe một 
					chút. Tôi ngồi trên ghế băng dài chiếm chỗ gần hết chiếc ghế, 
					hai chân xoạc ra, hai tay duỗi dài trên thành ghế . Tôi hình 
					dung nếu có ai đi qua hẳn là sẽ trố mắt nhìn rồi lắc đầu bỏ 
					đi. Tôi không phải là một cảnh quan xinh đẹp đáng nhìn ở đây. 
					Quần áo bẩn thỉu. Ba ngày chưa tắm giặt và dưới sức nóng, 
					tôi đoán cái mùi từ người tôi bốc ra càng khó ngữi. Nhưng 
					bạn nên ngữi mới đánh giá đúng, chứ nhìn thì vẫn chưa đủ. 
					Tôi cầm chai rượu táo pha cồn và mỗi khi há miệng tôi lại 
					trút cái thứ thuốc độc đáng nguyền rủa ấy vào miệng, một ít 
					tràn qua môi vương vãi trên áo jacket - càng bốc mùi nhiều 
					hơn.
 
 Trời nóng bức không nên mặc nhiều quần áo, thế nhưng người 
					người đi lại trên đường vẫn cứ diện vào sơ mi và áo khoác 
					ngoài trước cái nóng mùa hè. Cũng nên thấy rằng một số người 
					không ăn mặc như thế, hãy tưởng tượng nếu họ trông thấy 
					những thứ trên người của tôi đang mặc chắc cũng lộn mửa. Cho 
					dù giặt kỹ vẫn còn thấy kinh khủng, cái quần không vừa với 
					một người có số đo lưng như tôi, cà vạt thắt lòng thòng như 
					dây treo cổ. Một chiếc sơ mi cũ kỹ, chắc đã được mặc từ đời 
					ông đời cha cũng nên. Không cần nói cũng biết là không có cổ 
					áo. Còn chiếc áo jacket thì khỏi nói, không chỉ không hợp 
					với chiếc quần đang mặc, mà còn sờn rách nhiều chỗ, mặc cho 
					ánh nắng xuyên qua . Đôi giày há mỏm, một chiếc mất cả đế. 
					Còn vớ thì tốt nhất đừng nên nhắc đến. Bẩn thỉu như tổ đĩa, 
					cả hai đều như thế.
 
 Sau nhiều ngày tìm kiếm Adrian, tôi trông như thế này đây.
 
 Tuần rồi, cha anh ấy đến gặp tôi, một người đàn ông mập mạp, 
					mặt đỏ gay, để ria mép, có hàm răng đen xỉn. Trông ông ấy 
					giống như một kẻ uống quá nhiều rượu, hút quá nhiều thuốc lá 
					- tất nhiên người ông ta bốc lên chẳng khác gì cái mùi tìm 
					thấy trong chiếc gạt tàn. Ông ta khập khiểng đi vào văn 
					phòng mé chân phải còn có thêm chiếc gậy chống thật to.
 
 "Tôi đã được nghe nói về anh", người đàn ông nói cộc lốc. 
					Giọng nói hách dịch, thô lổ.
 
 Tôi nhìn ông ta, chờ đợi ông nói tiếp. Ông ta có nói tên 
					mình nhưng tôi không nhớ. Tôi chỉ gật đầu cho phải phép.
 
 "Và tôi có thể giúp gì cho ông, thưa ông... ?"
 
 "Ponting", ông ta nói gọn lỏn làm như là tôi đã biết rõ cái 
					tên ấy rồi.
 
 Bỗng nhiên tôi nhớ ra, "Có phải ông Ponting ở hãng sơn 
					Ponting ?"
 
 Người đàn ông gật đầu và cặp môi thâm xịt nở nụ cười thỏa 
					mãn. Đáng thương thay, cặp môi ấy lại phô ra hàm răng đen 
					kịt vì bám khói thuốc. "Chính xác như thế", người đàn ông 
					nói.
 
 Tôi đã có ít nhiều ấn tượng. Sơn của Ponting tất nhiên nổi 
					tiếng cả nước sau vài chiến dịch quảng cáo rầm rộ trên ti 
					vi, ở đó một con chó thật to đã được huấn luyện, cắn chiếc 
					cọ sơn giữa hàm. Không biết sơn tốt cỡ nào nhưng càng quảng 
					cáo nhiều thì có nhiều người biết đến. Quả thực con chó 
					trông rất dễ thương. Người ta biết đến con chó nhiều hơn là 
					thương hiệu hãng sơn.
 
 "Thưa ông Ponting, có vấn đề gì ạ ?"
 
 Gương mặt người đàn ông tối sầm, ngay lập tức ông ta trông 
					giống như một gã chủ hiệu thực phẩm ngoài chợ đang nổi lôi 
					đình vì một thằng bé lấy cắp quả táo bỏ chạy, hơn là một ông 
					chủ hãng sơn đáng giá bạc triệu.
 
 "Thằng Adrian là con trai tôi", người đàn ông nói.
 
 Tôi gật đầu tỏ vẻ hiểu biết. Lại chuyện con trai, tôi lặng 
					thinh, chuyện lớn rồi đây.
 
 "Nó bỏ nhà đi rồi", người đàn ông nói tiếp.
 
 "Sao ông không báo cảnh sát", tôi gợi ý.
 
 "Tôi không thích", người đàn ông nói,"Anh thấy đấy, nó mười 
					chín tuổi rồi còn gì. Đủ trưởng thành để tự quyết định mọi 
					chuyện".
 
 Tôi lại gật đầu, "Chắc là có nguyên nhân gì đó. Có lẽ là cãi 
					nhau. Tôi cần biết rõ chi tiết hơn, thưa ông".
 
 Đó là một việc khó, giống như tìm kim đáy bể, nhưng ngẫu 
					nhiên tôi có tấm hình chàng trai. Arian là chàng trai trẻ ở 
					đại học, học khá xuất sắc năm thứ hai, có triển vọng tốt. 
					Nhưng sau đó thì sự việc chuyển sang một hướng khác, "Nó đi 
					chơi với đám du thủ du thực ấy", tất nhiên điều ấy làm ông 
					bố Ponting thất vọng. Có dấu hiệu anh chàng nghiện ma túy - 
					Ồ, có 90% sinh viên chưa tốt nghiệp đều nếm qua thứ ấy bằng 
					cách này hay cách khác, tôi chẳng hề ngạc nhiên vì điều ấy. 
					Phải có "chuyện rắc rối" gì đó giữa những người trong gia 
					đình như cha mẹ, anh chị em với nhau mà không tiện nói.
 
 "Tình cờ", ông Ponting nói, "tôi biết được chuyện. Chúng tôi 
					cãi nhau kịch liệt và nó nó bỏ nhà đi mất. Chúng tôi tưởng 
					là nó về trường đại học, nhưng tìm ở đấy không thấy nó. Từ 
					đó đến nay tôi không nghe gì về nó nữa - chuyện ấy xảy ra 
					cách đây 6 tuần".
 
 "Lần cãi vả sau cùng xảy ra khi nào, thưa ông ?"
 
 "Ồ, chắc anh cũng hiểu. Chúng tôi, bên nào cũng nói những 
					điều mà thực tâm không muốn nói như thế".
 
 "Chính xác là nói gì ?", tôi hỏi.
 
 Ponting đằng hắng. Hình như người đàn ông này đang cân nhắc 
					chuyện gì đó. "Adrian nói nó sẽ sống cuộc sống của riêng nó. 
					Tôi bảo nó không sống nổi nếu không có tiền của tôi, cả đời 
					nó tôi đã tốn bao nhiêu tiền của. Nó không công ăn việc làm, 
					chẳng có năng lực gì thật sự, không thích kinh doanh, không 
					biết vận dụng. Cái gì cũng không hết, tất nhiên sẽ bị đào 
					thải. Nó nói nó có thể làm mọi việc mà không cần đến tôi, 
					không cần tiền của tôi. Thế là nó bỏ đi".
 
 "Cậu ấy có tiền không ?", tôi hỏi, "thẻ tín dụng chẳng hạn, 
					hoặc vay mượn từ bạn bè, họ hàng, hoặc của mẹ ?"
 
 Ponting lắc đầu, "Con tôi, tôi biết. Nó chẳng có gì cả".
 
 "Ông nghĩ cậu ấy có khả năng đi đâu ? Cậu ấy có thể ở nhờ 
					với ai đó được chăng ?"
 
 "Chúng tôi đã cố tìm mọi chỗ. Bạn bè nó. Không có kết quả. 
					Tôi nghĩ nó đang lang thang ngoài đường, có lẽ ở đâu đấy 
					trong thành phố London này".
 
 "Thôi được, ông Ponting, tôi sẽ cố hết sức mình".
 
 Sau đó chúng tôi bàn thêm về điều kiện, mà người đàn ông mau 
					chóng chấp nhận, sau đó bàn chi tiết về cách thức liên lạc, 
					hỏi tên và địa chỉ bạn bè Adrian.... và người đàn ông ký vào 
					bản hợp đồng. Người đàn ông trao tôi một tấm hình của 
					Adrian. Thoạt nhìn, tôi thấy ngay đó là một thanh niên có 
					gương mặt tươi vui, mắt xám, tóc màu vàng nhạt, nhưng nụ 
					cười - nếu nhìn kỹ chỉ là sự vui tươi giả tạo.
 
 Ponting đứng dậy sắp sửa ra về thì tôi ngăn lại, "Còn một 
					điểm cuối cùng thưa ông", tôi hỏi, "lần cãi nhau cuối cùng 
					thực chất là cãi về chuyện gì ?"
 
 Người đàn ông vờ vịt khoác tay cố né tránh câu hỏi, "Anh 
					biết rồi đấy", người đàn ông đáp, "toàn là chuyện gia đình 
					thôi".
 
 "Tôi không biết gì cả", tôi nói, "nhưng tôi cần biết. Có thể 
					đó là yếu tố quan trọng".
 
 "Tôi không nhớ nữa", người đàn ông đáp, ngay cả khi biết 
					rằng ông ta nói dối tôi cũng không nài ép thêm.
 
 Vậy là tôi có mặt ở đây, một mình lang thang trên phố, giống 
					như một kẻ không nhà để tìm cái kẻ bất cần đời kia.
 
 Có nhiều việc cần phải suy tính, đi đâu, làm gì, quan trọng 
					hơn là, cái gì không nên làm. Tránh mặt ai, tìm ở những chỗ 
					an toàn được mệnh danh là "khu vực xanh", đơn giản chỉ có 
					nghĩa là nơi không có những nguy cơ rình rập. Nơi tôi đang 
					ngồi là một trong số những khu vực xanh ấy. Người người qua 
					lại, một số người tỏ ra nghi ngờ, một số khác chỉ ngạc nhiên 
					nhưng không có ác cảm. Tôi dò la một cách cẩn thận, vì không 
					muốn để ai biết thực chất tôi đang tìm người. Tôi có tên, có 
					mô tả nhân dạng, thời điểm xảy ra chuyện, dù vậy tôi vẫn 
					không dùng đến tấm hình. Nhưng không ngon ăn chút nào. Luân 
					Đôn là một chốn rộng lớn. Người tứ xứ tụ tập về đây và tôi 
					chẳng biết bắt đầu từ đâu. Nhưng tôi có chút ít dấu vết. Có 
					người thấy một gã thanh niên theo lời tôi mô tả ở khu vực 
					công viên Finsbury - tôi phải giải thích rằng tôi nợ người 
					ấy một ân huệ và muốn tìm gặp để đáp đền. Cứ hỏi bà "Trưởng 
					lão Cái bang", người này khuyên tôi như thế. Bà ta luôn có 
					mặt ở công viên. Vì thế tôi mới xuất hiện ở nơi này, lười 
					nhác dưới ánh mặt trời và nghĩ xem có cách nào kiếm sống dễ 
					dàng hơn không thì lúc ấy...
 
 "Chúa ơi ! Matt ! Chuyện gì xảy ra với anh vậy ?"
 
 Giọng nói của quá khứ, mặc dầu không phải là một quá khứ xa 
					xôi cho lắm. Cái anh chàng Paul Massingham tóc hung, người 
					tình cũ, tôi vẫn yêu, nếu buộc phải thừa nhận, trong tâm 
					tưởng của tôi. Paul dáng dong dỏng cao, mảnh khảnh và đầy vẻ 
					quyến rũ, còn tôi, trông chẳng ra hình dạng gì, chẳng khác 
					nào một cái thùng rác trong ba tháng qua. Tệ thật ! Biết ăn 
					nói làm sao ...
 
 Và tôi lập tức nhìn thấy kẻ bám sau lưng Paul, hàng lô lốc 
					những chiếc túi nhựa đựng thứ gì đó bên trong mà tôi không 
					rõ - Bà "Trưởng lão Cái bang", chính là người tôi đang mong 
					gặp mặt - vì vậy tôi không cần phải đi đâu xa nữa. Tôi giải 
					thích với Paul một cách mơ hồ.
 
 "Vì công việc", tôi lẩm bẩm nói qua kẽ răng, "Lâu lắm rồi 
					anh chưa có cơ hội đụng vào ai cả", lần này lời nói lớn hơn 
					cố tình cho người đàn bà kia nghe.
 
 "Vì cái gì ?", Paul hỏi.
 
 "Vì em", tôi nói lớn, "Em có thể ngồi đây một chút như bao 
					nhiêu người khác... ", tôi nói nhưng mắt vẫn lơ đãng, "cho 
					anh sờ một chút thôi", tôi nói nhỏ.
 
 Rõ ràng Paul tỏ ra sững sốt, thậm chí là có thể nổi nóng vì 
					thái độ sàm sở của tôi. Nhưng Paul ngẫm nghĩ gì đó rồi nói, 
					"Anh phải tắm trước đã", sau đó bỏ đi một nước, không quay 
					lại nhìn lần nào. Lẽ ra tôi phải nhìn kỹ để đoán xem phản 
					ứng của Paul thế nào nhưng tôi còn có việc phải làm.
 
 Người đàn bà được mệnh danh là "Trưởng lão cái bang" - không 
					ai biết tên thật của bà - đang ngồi xổm trên ghế dài kế bên 
					tôi, lưng dựa ra sau thành ghế để ánh mặt trời chiếu lên mặt 
					mình. Quanh người đàn bà này lủng lẳng những túi nhựa, màu 
					đen, loại túi đựng rác. Bên trong chứa những tài sản của bà 
					và bà trông giữ cẩn thận như sợ người khác cướp mất, sẵn 
					sàng nhe hàm răng đen kịt gầm gừ đe dọa nếu có ai đến gần. 
					Bên trong những chiếc túi ấy là tất cả những gì bà có được, 
					từ việc lượm lặt ở các thùng rác nếu may mắn, những món đồ 
					chơi gãy sứt, sách mất bìa, vật dụng bằng nhựa hư hỏng - 
					những gì người ta bỏ đi đều là tài sản của bà.
 
 Bà mặc bất cứ thứ gì có được, lớp trong lớp ngoài chồng lên 
					nhau, làm bằng những loại vải bẩn thỉu không còn màu sắc ban 
					đầu bây giờ cứ xin xỉn một màu giống như đồng phục, và cái 
					mùi - không có gì so sánh được - cái mùi cũ kỹ giống như thứ 
					mùi bạn ngữi thấy trong nhà thờ đầy bụi bẩn, ẩm thấp hoặc 
					mùi của những quyển sách mục nát.
 
 Bà ta chẳng hề phải lo lắng gì, ngoại trừ lo người ta sẽ 
					đánh cắp tài sản quý giá của bà. Bà thường phải chịu cơn đói 
					dày vò nhưng cô Sally Ann thỉnh thoảng cũng đến cho bà ít 
					súp và bánh mì. Cái giá lạnh ban đêm bà có thể chịu được, nó 
					là người bạn đồng hành mà bà không hề mong đợi. Sự thật là 
					tôi ngồi kế bên người đàn bà này, bà ta đang ngồi xổm nhe 
					răng gầm gừ đe dọa những kẻ không mời mà tới.
 
 Người đàn bà đăm đăm nhìn cái chai trong tay tôi, ánh mắt 
					người đàn bà tươi tỉnh tỏ ra dễ thương hơn.
 
 "Tôi khát khủng khiếp", người đàn bà nói. Cái giọng nói rời 
					rạc và đùng đục cứ như là bà quên nói chuyện từ rất lâu.
 
 Tôi trao cho bà chai rượu mạnh và bà tợp một ngụm lớn, rồi 
					ngụm khác. Tôi tự hỏi không biết bên trong người bà có thứ 
					gì chưa. Bà đưa chai rượu cho tôi. "Cứ giữ lấy mà uống", tôi 
					bảo mặc dù đó không phải là tính cách của tôi. Thỉnh thoảng 
					có một cử chỉ hào hiệp thì cũng nên, nhưng rộng rãi quá đôi 
					khi cũng khiến người khác nghi ngờ.
 
 "Cám ơn", bà vừa ợ vừa nói cộc lốc, lộ vẻ ngờ vực, nhưng vẫn 
					không nhận chai rượu. Người đàn bà nhìn tôi đăm đăm cố để 
					hình dung cái gì đang ở trước mắt bà. "Tôi chưa từng thấy 
					anh ở đây", bà nói, nỗi ngờ vực gia tăng.
 
 Tất nhiên tôi cũng chưa từng gặp bà ta, nhưng tôi biết khá 
					nhiều về người đàn bà này. Mọi người đều biết bà "Trưởng lão 
					Cái bang", và theo lời kể lại, thì bà ta biết mặt hầu hết 
					những người lui tới nơi đây. Đó là lý do vì sao tôi chọn 
					đúng chiếc ghế đá này đúng vào thời điểm này, vì tôi biết 
					rằng đó là chỗ bà ta thường lui tới.
 
 "Tên tôi là Matt", tôi nói.
 
 "Ai hỏi tên anh", người đàn bà nói, mặc dầu tôi thừa biết bà 
					sẽ đem cất cái tên tôi vào một ngăn nào đó trong bộ não của 
					bà "Ngủ ở đâu ?".
 
 Thì ra, điều quan trọng hơn cả cái tên chính là chỗ ngủ qua 
					đêm. "Trạm xe điện", tôi đáp.
 
 Người đàn bà nhìn tôi rồi nói "Vào khu nhà kho ngủ vẫn tốt 
					hơn ở ngoài công viên Finsbury".
 
 Tôi nhận ra bà ta đang cho tôi một lời khuyên. Tôi gật đầu 
					và cảm ơn rối rít nhưng trong lòng vẫn dấy lên nổi nghi ngại.
 
 Một lúc sau tôi bỏ đi, sau khi mời bà uống thêm hai ngụm nữa.
 
 Sực nhớ một điều, tôi quay lại hỏi "Gần đây bà có thấy 
					Adrian không ?"
 
 Người đàn bà quệt tay lên miệng lau những giọt rượu còn sót 
					lại. "Tên gì kỳ vậy", người đàn bà nhìn tôi, có vẻ như để 
					khẳng định hơn là thái độ phê phán. "Adrian già hay trẻ ?"
 
 "Anh chàng Adrian trẻ ấy".
 
 Người đàn bà ắt hẳn cũng có đôi điều thắc mắc trong đầu - 
					hoặc ít ra tôi cũng đoán bà ta đang thắc mắc - dù vậy bà vẫn 
					phun ra từng câu rời rạc "Có thấy, tuần rồi", bà nói, "Đi 
					ngược lên phía Bắc".
 
 Ở Reykjavik, tôi muốn điên cái đầu, hay ở Bắc Cực, hay một 
					chỗ nào đó xa hơn. Cái ý nghĩ đó khiến tôi gần như chết cứng 
					ngay lúc đó.
 
 "Công viên Belsize".
 
 "Có phải cái anh chàng Adrian tóc vàng", tôi kiểm chứng cho 
					chắc ăn.
 
 Người đàn bà gật đầu "Đúng đấy", bà nói.
 
 Tuyệt thật, tôi nghĩ thầm, trong khi đang đổ mồ hôi vì ánh 
					nắng mặt trời. Tôi tự nhủ nếu có chút ít thông tin gì về lần 
					cãi nhau cuối cùng của gia đình họ thì hay biết mấy. Không 
					có chút đầu mối nào. Dù là gay hay đàn ông chính hiệu, thì 
					một người sống lang thang cũng cần có khả năng và sự thích 
					nghi mới có thể tồn tại được.
 
 Công viên Belsize. Một ngọn đồi dốc bên ngoài trạm xe điện 
					ngầm, phải đi ngược lên Hampstead Heath, rồi xuống thị trấn 
					Camden. Một dãy phố các cửa tiệm đối diện nhau, cửa hàng rau 
					quả, cửa hàng bán thức ăn chế biến sẳn, dịch vụ lữ hành, 
					tiệm bánh ngọt. Tôi vào con phố mua một khúc xúc xích. Người 
					phụ nữ sau quầy rõ ràng không mong muốn tôi bước vào cửa 
					hiệu sạch sẽ của bà - cũng khó trách bà ấy, nhưng bà ấy bán 
					hàng cho tôi mà mặt mày nhăn nhó, khó chịu
 Tôi bước ra ngoài tìm một chỗ ngồi - một chỗ dành cho khách 
					bộ hành nghỉ chân. Một người đàn ông đứng tuổi - bề ngoài 
					giống như một gã có "tâm hồn tự do" (ND : dân bụi đời) - tôi 
					đoán thế - đang ngồi đầu ghế bên kia. Người này mặc một áo 
					choàng xám dài tới mắt cá chân, bên dưới là đôi giàu 
					xăng-đan. Bên trong, những ngón chân đen xì trông giống như 
					nhúng bùn, còn mắt cá xây xát. Tôi ăn khúc xúc xích, lấy 
					chai rượu táo pha cồn trong túi, chuẩn bị trò chuyện, tôi 
					đưa chai về hướng người ấy.
 
 "Thứ này sẽ giết anh mất", người đàn ông nói với vẻ hiểu 
					biết. Đôi mắt nhìn tôi, cặp chân mày nâu nhíu lại. Trông 
					người này không khỏe mạnh lắm. Nước da xanh mét trên gương 
					mặt lấp lánh mồ hôi, một ngày nóng bức thế này mà người này 
					vẫn mặc áo khoác ngoài dày cộp.
 
 "Anh nói đúng", tôi nói, "không ngại uống một ngụm chứ ?".
 
 "Nếu muốn tự sát, thà rằng tôi về nhà chui đầu vào bếp ga 
					còn hơn".
 
 Tôi không có ý định chỉ ra rằng, ga đốt không phải là thứ 
					giết người tức thì, nó phải tràn ngập gian phòng cho tới khi 
					không còn oxy rồi mới làm cho bạn chết ngạt. Rõ ràng người 
					này không phải là dân bụi đời như cái vẻ bề ngoài. Tuy nhiên 
					điều ấy vẫn có thể đúng, nếu như người đàn ông là "khách mối" 
					của ghế đá này, nơi có thể ngắm nhìn mọi thứ diễn ra, hiểu 
					biết và ít nhất là có chú ý sự việc diễn ra xung quanh.
 
 "Xin lỗi ông", tôi nói, "Ông có thấy đám con trai hò hẹn 
					quanh đây không ?"
 
 Người đàn ông vênh mặt hỏi, "Cái gì khiến anh nghĩ tôi tới 
					đây kiếm trai ?", gã nói, một câu nói gai góc nếu không nghĩ 
					đó là phản ứng tức giận của người đàn ông.
 
 Tôi nhận ra mình đã phạm sai lầm. "Ồ không, tôi không có ý 
					đó. Tôi đang tìm người. Có người nhìn thấy người tôi tìm ở 
					công viên Belsize. Tên cậu ấy là Adrian".
 
 "Tôi không quen cái tên ấy. Người này trông thế nào ?"
 
 Tôi lấy tấm hình trong túi đưa cho người đàn ông. Người này 
					rụt rè cầm lấy nhưng sau khi liếc sơ qua thì người đàn ông 
					xăm xoi nhìn kỹ hơn, sắc mặt biến đổi và gần như muốn nhảy 
					dựng lên. "Có đấy", người đàn ông nói, "Tôi có thấy người 
					này. Tôi nhớ màu tóc. Trông anh chàng không vui vẻ gì. Tôi 
					nghĩ anh ta sợ thì đúng hơn. Thỉnh thoảng cứ ngoáy ra sau 
					nhìn, cứ như là có ai theo dõi anh ta vậy".
 
 "Ông gặp lúc nào ?", tôi hỏi.
 
 "Sáng nay. Cách đây vài giờ, tôi đoán thế. Chắc là vào 
					khoảng 7 giờ".
 
 "Cậu ấy đi đâu ?"
 
 "Lên đồi Rosslynl. Đi về phía Hampstead". Người đàn ông hất 
					hàm về bên phải ra dấu.
 
 Tôi định đứng lên nhưng chợt nghĩ ra một điều, "và ở chỗ đó 
					sao ?", tôi hỏi.
 
 "Cái gì ở đó ?"
 
 "Người theo dõi cậu ấy đó ?"
 
 "Tôi không biết nhiều như thế đâu. Mà cũng không thấy ai cả", 
					người đàn ông dừng lại một chút rồi nói tiếp, "ngoại trừ 
					anh".
 
 Tôi mỉm cười, đứng dậy.
 
 "Ừ, có lẽ tôi cần uống một chút", người đàn ông nói.
 
 Thấy tay người đàn ông run run, tôi đưa chai rượu cho người 
					này.
 
 Đồi dốc, trèo lên ngọn đồi làm tôi mướt mồ hôi. Tôi đi qua 
					một bệnh viện ở phía tay phải, đi theo con đường xuống bên 
					dưới. Vừa qua khu Flask Walk thì thấy có hai người đàn ông 
					dựa lưng vào tường bên ngoài quán rượu "The Flask". Hai 
					người này tay cầm hai ly bia lớn, trông phát thèm. Trông họ 
					vô hại nhưng cũng khó bắt chuyện.
 
 "Xin chào", tôi nói, "tôi đang tìm người này, nếu có thấy 
					vui lòng chỉ giúp", tôi đưa tấm hình cho họ xem.
 
 Họ nhìn tôi bằng ánh mắt nghi ngờ, đây không phải là lần đầu 
					tiên, ước gì tôi về nhà được để thay đổi cái bộ dạng "ma cà 
					bông" của mình để trở thành một quý ông lịch thiệp, bây giờ 
					ai nhìn tôi mà không ngờ vực mới lạ.
 
 "Tìm để làm gì ?", một người hỏi.
 
 "Ê này, không phải là cái thằng hỏi anh mấy giờ rồi chứ ?", 
					người kia nói, rõ ràng có ý biếm nhẽ, "còn anh thì bảo tự 
					mua đồng hồ mà xem đấy sao ?".
 
 "Xin cảm ơn các ngài", tôi nói với vẻ thản nhiên để che dấu 
					giọng mỉa mai và đi ngay lập tức, theo sau là tiếng la ó, 
					chửi rủa "Đồ dâm đãng, lũ đồng dâm khốn nạn". Nhưng lời chửi 
					rủa ấy không có ý đe dọa và không ai muốn đuổi theo.
 
 Đoạn bên trên con đường là quán rượu "William đệ tứ" nhưng 
					tôi bỏ qua. Trông chỗ đó cũng thiếu lịch sự và e rằng tôi 
					cũng không nhịn được. Tôi cố nhìn vào sân nơi mấy tay bợm 
					nhậu đang ngồi bàn văng tục ồn ào. Adrian, người tôi tìm 
					chắc không ở trong số những người kém văn hóa này.
 
 Tôi rẽ phải tại trạm xe điện Hampstead, ngẫu nhiên đây là 
					chỗ sâu nhất trong toàn bộ hệ thống xe điện ngầm ở Luân Đôn, 
					và dẫn tới đường Heath bên trên, hơi dốc một chút, tuyến 
					đường xe điện ngầm sẽ chạy tới hồ Round, lâu đài Jack Straw 
					để lên đường Health.
 (Hết Phần 1 ... Xin mời đón xem tiếp
					Phần 
					2) |