| Lão đầu đà
                  khoe hão cái túi da Tiểu cư sĩ thích nhục bồ đoàn
 
 Truyện xảy ra vào đời Nguyên (1280-1368), khoảng
                  năm Chí Hòa (1328). Lúc ấy trên núi Điểm thương,
                  có một vị ẩn tu, pháp danh Chính nhất, đạo hiệu
                  Cô Phong. Ngài vốn người Châu quận, theo học
                  Khổng thầy là một vị tú tài nổi tiếng. Nhưng
                  do thiện căn, lúc sinh ra mới đầy tháng còn
                  trong nôi đã ê a kỳ lạ, chẳng khác chi học
                  trò trả bài, cha mẹ ngạc nhiên lắm. Có một
                  nhà sư khuất thực trước cửa nhà, gặp a hoàn
                  bồng ngài ở trên tay, mà miệng cứ ra tiếng,
                  khóc không phải khóc, cười không phải cười.
                  Nhà sư mới lắng tai nghe rồi nhận ra đứa bé
                  đang tụng Lăng Nghiêm Đại Tạng, chính là hóa
                  kiếp của một vị cao tăng. Nhà sư xin với cha mẹ
                  đứa bé để được thu nhận làm đệ tử.
 
 Bậc cha mẹ cho là lời xằng bậy, không tin mà
                  từ chối, về sau dốc lòng bắt ngài trau dồi
                  kinh sử để theo đường công danh. Lớn lên ngài
                  học đâu nhớ đó. Rồi vì chuyện khoa danh không
                  phải điều ngài mơ ước, nhiều lần ngài muốn
                  bỏ Nho để học Phật, nhưng đều bị cha mẹ roi vọt,
                  nghiêm khắc cản trở.
 
 Bất đắc dĩ ngài cũng đi thi cho có lệ. Sau khi
                  cha mẹ đều qua đời, ngài chịu tang hai năm, rồi
                  phân chia gia sản cho người trong họ. Phần mình
                  chỉ có mộ cái túi da lớn, chất mõ và kinh kệ
                  vào trong, xong rồi cạo đầu lên núi tu hành.
 
 Người biết gọi ngài là Cô Phong trưởng lão,
                  người không biết gọi ngài là Bố Đại hòa
                  thượng (hòa thượng xách bị). Ngài không giống
                  các nhà sư khác, không những đối với các
                  chuyện rượu thịt, tà dâm... thủ giới rất
                  nghiêm, mà ngay cả với chốn tăng gia cũng giữ
                  luôn ba giới cấm là không khất thực, không
                  giảng kinh, không ngụ nơi danh sơn để tu hành.
 
 Có người hỏi tại sao không khất thực, ngài
                  dạy: "Việc học Phật, đại để bắt đầu từ
                  những hành vi thiện. Phải cực khổ, phải vất
                  vả, phải bị cái đói, cái rách bức bách hằng
                  ngày thì cái ý niệm dâm ô mới không sinh ra,
                  dâm dục không sinh thì cái ô trược bị tống
                  khứ, mà cái thanh tĩnh sẽ mỗi ngày mỗi đến,
                  lâu dần rồi tự nhiên thành Phật, ngay cả kinh
                  cũng có thể không bắt buộc phải niệm, mõ cũng
                  có thể không bắt buộc phải gõ. Nếu không khốn
                  cùng mà vẫn có ăn, không dệt mà vẫn có áo
                  mặc, cả ngày chỉ trông cậy vào bá gia, bá tính
                  cúng dường như vậy rõ ràng đã không thành
                  Phật mà thân sa vào địa ngục mấy hồi. Vì vậy,
                  tôi làm lấy mà ăn, tự giới không khất thực."
 
 Có người thắc mắc tại sao không giảng kinh,
                  ngài dạy: "Lời lẽ trong kinh tạng là từ
                  Phật, Bồ tát nói ra. Trừ phi Phật, Bồ tát giảng
                  thì được, chứ người khác ngày nào cũng đòi
                  giảng thì có khác chi người điên giải mộng.
                  Kinh kệ càng bàn, càng thành chi ly. Đào Uyên
                  Minh tức Đào Tiềm đời Tấn, xưa kia chẳng nói
                  "Độc thư bất cầu thậm giải" (đọc sách
                  không cần phải giải rõ hẵn), đủ rõ ngưới
                  Trung Quốc đọc sách Trung Quốc mà còn không dám
                  mong giải cho rõ, huống hồ người Trung Quốc đọc
                  sách ngoại quốc đòi bình giải, thì chỉ thêm
                  sai mà thôi. Tôi không dám mong làm bậc công
                  thần của Phật với Bồ tát, chỉ muốn được
                  tránh không làm kẻ tội phạm đối với Phật
                  thôi, thế nên tự giới không giảng kinh".
 Có người lại hỏi tại
                  sao không tìm nơi danh sơn mà ngụ, ngài dạy:
                  "Kẻ tu hành cấm không được ham thấy sắc.
                  Muốn cho tâm không loạn thì phải tránh xa sắc
                  dục, không những đó là giọng đàn tiếng quyển
                  ngọt ngào, mà còn là ngọn gió mát lướt nhẹ
                  trên da thịt, vầng trăng sáng làm thỏa thích tâm
                  hồn, mà còn là tiếng chim hót líu lo vui tai, là
                  thức ăn khoái khẩu, tất cả đều đáng yêu
                  đáng mến. Trước cảnh sông núi linh thiên đẹp
                  đẽ, làm sao có thể không động lòng mà chẳng
                  chấp bút đề thi, chị trăng dì gió cũng theo người
                  nhập định, thì đêm hôm khuya khoắt làm sao có
                  thể ngồi yên trên bồ đoàn?Cho nên vào danh sơn để học thì việc học khó
                  thành, vào danh sơn để tu thì tình căn nan tịnh.
                  Huống chi nơi danh sơn nào mà chẳng có các bà
                  các cô đến lễ bái, rồi cùng với các cô,
                  có các cậu sẽ giỡ trò ghẹo nguyệt trêu hoa.
                  Vì thế tôi bỏ nơi danh sơn mà dọn đến hoang sơn
                  dể mắt tai khỏi bị nhiễm, thế thôi."
 
 Người hỏi rất khâm phục khi nghe ngài đối đáp,
                  cho rằng từ hồi nào tới giờ chưa có vị cao
                  tạng nào được như thế. Ngài chỉ thực hiện
                  ba điều giới cấm mà tuy không cầu danh nhưng
                  danh càng nổi, dân chúng xa gần phát tâm chiêm
                  bái thật đông.
 
 Nhưng ngài không thu nhận đệ tử một cách hời
                  hợt. Phải là kẻ có thiện căn thành tín thì
                  mới được xuống tóc, nếu không đều tuyệt
                  đối khước từ. Vì vậy tuy ngài xuất gia đã
                  lâu mà đệ tử không được mấy người. Một
                  góc núi, một túp lều tranh, cày ruộng mà ăn,
                  múc nước suối mà uống, trên cột trước cửa
                  nhà viết một đôi câu liễn:
 
 Học Phật vô an lạc, thân tu hoạt du biến nhất
                  thập bát tầng điạ ngục.
 Tham thiền phi dung dị, minh vấn dĩ tọa phá kỷ
                  thiên bách cá bồ đoàn.
 
 Có nghĩa là:
 Học Phật mà không cảm thấy an lạc, thì nên đi
                  chơi khắp mười tám tầng địa ngục.
 Tham thiền mà không thấy dễ, thì nên tự hỏi,
                  mình đã ngồi nát bao nhiêu trăm ngàn tấm bồ
                  đoàn rồi.
 
 Chỉ cần gặp, là biết ngài bình sinh khổ hạnh
                  như thế nào.
 
 Một hôm trời thu, vào lúc sáng sớm, gió thu
                  hiu hắt tiếng mõ vừa ngưng, côn trùng kêu, nhà
                  sư ra sân quét lá, thay nước cúng Phật, thắp
                  hương xong rồi vào nhà trên trải bồ đoàn ngồi
                  thiền. Ngài ngẫu nhiên quên đóng cửa lại. Chợt
                  có một thư sinh khôi ngô trẻ tuổi và hai tiểu
                  đồng bước vào.
 
 Thư sinh ấy làn da mắt thu thủy, dung mạo tựa
                  Phan An, da mặt trắng như con gái, mày dài quá mắt,
                  đồng tử đen trắng phân minh, long lanh bất định.
                  Đôi mắt ấy, người đời gọi là sắc nhản,
                  mà đã là người có sắc nhãn thì thường
                  không thích nhìn thẳng, chuyên nhìn nghiêng, lại
                  không thích nhìn nơi nào bằng nhìn phụ nữ.
 
 Người có sắc nhãn không cứ chỉ thấy rõ
                  ở gần, mà còn có thể từ xa hằng mấy mươi
                  trượng, chỉ cần đảo cặp mắt trong vòng hai cái
                  là đã có thể thấy biết được phụ nữ đẹp
                  xấu ngay. Gặp người đẹp tức khắc nhìn đắm
                  đuối, nếu người ấy đứng đắn, sẽ phải cuối
                  đầu mà tránh. Thấy vậy đôi mắt lại chìm đắm
                  hướng về cõi hư vô. Nhưng nếu người phụ nữ
                  cũng là loại có sắc nhãn, nghĩa là cùng một
                  chứng như kẻ nam tử trên, thì bên này đắm
                  đuối qua, bên kia đắm đuối lại, rồi thư tình
                  một bức là xong
 
 Cho nên dù trai hay gái, sinh ra có loại mắt này
                  là một điềm chẳng lành, vì đó là căn do
                  khiến danh dự sẽ tổn thương, tiết hạnh bại
                  hoại. Quý độc giả, lỡ mà có đôi mắt ấy
                  không thể không thận trọng vậy.
 
 Bấy giờ chàng thư sinh bước vào, quỳ lạy bốn
                  lạy trước tượng Phật, rồi cũng hướng về
                  hòa thưọng mà quỳ lạy bốn lạy, lạy xong
                  đứng yên qua một bên. Hòa thượng vì đang nhập
                  định, nên không tiện đáp lễ, ngay khi nhập định
                  xong, ngài rời khỏi bồ đoàn trang trọng lạy
                  trả bốn lạy. Ngài mời khách an tọa và hỏi
                  thăm tên họ, Thư sinh đáp: "Đệ tử là
                  khách phương xa, nhân đi chơi ngang vùng Giang Triết,
                  biệt hiệu là Bán Dạ Sinh. nhân nghe danh sư phụ
                  là bậc danh tăng ở đời này, là vị Phật sống
                  trong thiên hạ, nên đã trai giới tắm gội, đến
                  để xin cầu kiến."
 
 Tại sao hòa thượng hỏi tên, mà chàng thư sinh
                  chỉ nói đến biệt hiệu mà thôi? Ấy chẳng qua
                  là vì cuối đời Nguyên, sĩ phu không thích gọi
                  nhau bằng tên họ, mà họ chỉ gọi nhau bằng biệt
                  hiệu thôi. Vì thế có người xưng là mỗ sinh,
                  có người xưng là mỗ tử, có người xưng đạo
                  nhân, chữ mỗ có nghĩa "nào đó". Đến
                  như chọn biệt hiệu thì lại tùy theo tính tình của
                  mỗi ngườimà đặtcho hợp, cốt sao cho mình tự
                  hiểu. Thư sinh, sở dĩ lấy biệt hiệu Bán Dạ
                  Sinh, là vì thứ nhất tuổi còn trẻ, thứ hai đam
                  mê tữu sắc, thích ban đêm mà không thích ban
                  ngày, lại thích lúc nửa đêm mà không thích
                  sau nửa đêm. Hơn nữa trong Kinh Thi có câu:
 Hữ độ như hàKỳ dạ vi ương
 
 Có nghĩa là:
 Đêm thế nào
 Đêm chưa quá nửa.
 
 Biệt hiệu Vị Ương, hay (Tiền) Bán Dạ Sinh chính
                  là xuất phát từ đó.
 
 Nghe thư sinh kính ngưỡng quá lời, hòa thượng
                  bèn đáp lại bằng một câu khiêm tốn. Thấy
                  thầy trò họ đi bộ từ xa đến chắc đã đói
                  bụng, sẵn cơm chín, hòa thượng giữ họ lại
                  cùng ăn bữa cơm đạm bạc. Trong lúc thụ trai
                  hai người đối tọa và cùng bàn luận đạo
                  thiền rất tương đắc. Thì ra Bán Dạ Sinh vốn rất
                  thông minh, không những học sâu học kỹ, mà còn
                  tham bác cả tam giáo cửu lưu, không sách vở
                  nào mà lọt khỏi mắt.
 
 Đạo thiền vốn tinh thâm, đối với người khác
                  phải giảng đi giảng lại trăm ngàn lần mà còn
                  không hiểu thay, vậy mà đối với chàng, hòa
                  thượng chỉ cần nhắc câu đầu là chàng hiểu
                  ngay cả đoạn.
 
 Tuy không nói ra nhưng hòa thượng đầy thắc mắc
                  trong lòng: "Thật là một thanh niên trí tuệ!
                  Chỉ giận một điều là tại một người học Phật
                  như vậy, tại sao tạo hóa lại ban cho một tướng
                  mạo thật oan nghiệt. Trông hình dung xét cử chỉ,
                  rõ ràng đây là con quỷ dâm dục hạng nặng.
                  Nếu mình không thu phục nó vào trong bị được,
                  chắc chắn sau này không biết bao nhiêu phụ nữ
                  phải khổ vì nó.
 Nếu hôm nay mình không thấy thì thôi, đã thấy
                  một người gây loạn như thế mà mình không ra
                  tay trừ nạn cho chúng sinh, thì đâu phải là đạo
                  từ bi. Dẫu nghiệt căn của nó cố định, không
                  lay chuyển được, nhưng mình củng phải vận dụng
                  hết lòng từ bi, xem có cứu được nó chút
                  nào không."
 Nghĩ vậy hòa thượng bèn
                  nói với Bán Dạ Sinh: "Bần tăng từ khi lập
                  tâm lánh đời đến nay, đôi mắt này đã nhìn
                  thấy bao nhiêu là người. Cố nhiên là không
                  nói đến bọn ngu phu ngu phụ rắp tâm huớng thiện,
                  ngay cả những người có học thức, có địa vị,
                  đã đến đây ngồi thiền nghe pháp, ai nấy đều
                  là khách xa. Nói chung ngộ đạo và ngộ thiền
                  là hai thứ thông minh khác nhau. Ngộ đạo dễ,
                  ngộ thiền khó. Học nho nghe một có thể biết mười,
                  còn học Phật may ra nghe một chỉ biết hai mà thôi.
                  Không ngờ gặp hiền cư sĩ thông minh mẫn tiệp
                  đến thế. Với tài năng ấy, nếu học thiền thì
                  chỉ trong vài năm là có thể đắc tam muội. Sống
                  ở đời, cái dễ được là cái hình thể, cái
                  khó được là tính linh, dễ qua là thời gian,
                  khó qua là kiếp số. Cư sĩ lại dây với cầu
                  kiến làm Phật, thì đừng theo đường ma.Vậy thì
                  tại sao không nhân buổi sáng hôm nay cắt bỏ ái
                  dục, lánh hẳn vào cửa thiền. Ý tứ của bần
                  tăng tuy vụng, nhưng chắc bổ ích phần nào. Nếu
                  có thể phát được đại nguyện này, ra sức
                  chứng được đại nhân quả này, thì trăm năm
                  sau sẽ có thể, trên phối hưởng với tăng môn,
                  dưới không theo lệnh của La sát, cư sĩ nghĩ sao?"
 Bán Dạ Sinh đáp: "Từ lâu đệ tử vốn
                  tha thiết với đạo thiền, trước sau thế nào
                  cũng quay về với pháp môn. Có điều tam niệm
                  của đệ tử một khi chưa thỏa, thì khó thoát
                  ly. Hiễn đệ tử tuổi còn nhỏ, trước khi quy y
                  phải xong hai việc, hưởng thụ xong vài năm kẻo
                  uổng cả đời người, rồi sau đó sẽ xin xuống
                  tóc quy y cũng không muộn".
 
 Hòa thuợng hỏi: "Dám hỏi cư sĩ hai điều
                  nguyện ấy thế nào? Phải chăng đó là công
                  danh, phú quý, trước là cho bỏ công ăn học,
                  sau là để vẹn nghĩa vua tôi hay không"
 
 Bán Dạ Sinh lắc lắc đầu: "Thưa không, hai
                  chữ công danh tuy nằm trong bổn phận của người
                  đi học, nhưng người ắt được thì ít mà kẻ
                  không thỏa thì nhiều. Hồi trước Lưu Bị cũng
                  chưa từng thi đậu bao giờ, trong khi Lý Bạch là
                  người có đại đăng khoa, thế nên có tài mà
                  cũng cần có mệnh, thì đệ tử làm sao tự làm
                  chủ dược mệnh? Ngay trong việc lập công danh sự
                  nghiệp, cũng còn tùy số trời. Trời không cho,
                  người không chịu, thì cho có lòng trung như Nhạc
                  Vũ Mục, nghĩa khí như Quan Vân Trường cũng chịu
                  thôi. Đành nát lòng, bỏ xác, có chắc gì giúp
                  được cho nước nhà. Hai chữ lợi danh mà người
                  ta coi là quan trọng, đệ tử biết không nên màng,
                  nên nguyện ước của đệ tử không phải là
                  ở chổ đó".
 
 Hòa thượng hỏi: "Rốt ráo, sở nguyện của
                  cư sĩ là gì?"
 Bán Dạ Sinh đáp: "Sở
                  nguyện của đệ tử chính là điều mà tự sức
                  dệ tử có thể làm, là điều mà lòng dệ tử
                  tin, tuyệt đối không phải là vọng tưởng, không
                  là điều gì khó nói cho lắm. Không dám nói dấu
                  sư phụ, trí nhớ cuả dệ tử khi đọc sách, sự
                  giác ngộ của đệ tử khi nge đạo, tài chấp bút
                  của dệ tử khi hành văn, nhất nhất hơn người.
                  Mấy tay danh sĩ đời nay chẳng qua chỉ chắp nối,
                  ráp đầu này nối đầu kia thế thôi, viết
                  được vài ba thiên sách, in được một bộ thi
                  văn là đã lập văn đàn nọ, mở thi đàn
                  kia,múa may quay cuồng một cõi, thật chẳng qua chỉ
                  toàn vay mượn. Theo đệ tử, muốn làm một danh
                  sĩ chân chánh, bắt buộc phải đọc hết các sách
                  lạ trong thiên hạ, phải giao thiệp vvới tất cả
                  các bậc kỳ sĩ ở đời, phải đi chơi khắp các
                  nơi danh sơn trong bốn cõi, rồi lui về mai danh ẩn
                  tích, trứ thư lập ngôn để truyền lại cho
                  đời sau, nếu may mà đè tên bảng hổ thì đem
                  tài năng ra giúp nước, giúp đời, tạo dựng
                  sự nghiệp, nếu vạn nhất văn phúc không tròn,
                  cho dù ở địa vị thấp kém hơn người, còn lưu
                  tiếng thơm muôn thuở. Vì thế đệ tử nhủ thầm
                  trong bụng câu thơ sau đây:Yếu tố thế gian đệ nhất tài tử.
 Có nghĩa:
 Là trang tài tử nhất trong đời.
 
 Hòa thượng nói: "Đấy là câu thứ nhất,
                  thế còn ước nguyện thứ hai?"
 
 Bán Dạ Sinh dè dặt, như sợ bị hòa thượng cười,
                  không dám nói ra.
 
 Hòa thượng bảo: "Còn câu hai, nếu cư sĩ
                  ngại không nói ra thì để bần tăng nói thay cho"
 
 Bán Dạ Sinh nói: "Chuyện trong lòng đệ tử,
                  làm sao sư phụ nói được?"
 
 Hòa thượng nói: "Thì cứ để bần tăng nói
                  đã, nếu sai thì phạt. Có điều nói ra mà đúng
                  thì cư sĩ phải nhận là đúng,không được chối
                  quanh"
 
 Bán Dạ Sinh nói: "Lời sư phụ không những
                  là của bồ tát, mà của thần thánh. Con muốn
                  được sư phụ chỉ dẩn đâu là đường mê nẻo
                  chánh, há dám chối từ."
 
 Hòa thượng thung dung chậm rãi nói:
 "Yếu thú thiên hạ đệ nhất vị giai nhân"
 Có nghĩa:
 "Muốn lấy một giai nhân bậc nhất thiên hạ"
 
 Bán Dạ Sinh nghe xong bất giác ngẩn ngơ miệng há
                  mắt giương, đứng yên một lát mới cười, nói:
                  "Sư phụ quả là một bậc thần nhân. Hai câu
                  này suốt ngày con chỉ đọc thầm trong bụng mà
                  thôi. Vậy sư phụ như nghe được hết, đã đoán
                  trúng được."
 Hòa thượng nói: "Cư
                  sĩ há không nghe câu:Nhân gian tư ngữ
 Thiên hạ nhược lôi?"
 Có nghĩa:
 (tiếng) Con người thì thầm với nhau
 (chẳng khác ) Sấm động ở trên trời.
 
 Bán Dạ Sinh nói: "Lẽ ra chuyện tình ái không
                  nên đem bàn tại cửa thiền, nhưng sư phụ đã
                  đề cập đến, đệ tử cũng xin phép đem thực
                  tâm ra mà giãi bày. Không nói dấu gì sư phụ,
                  đệ tử nghĩ dến đạo thì ít mà tơ tưởng đến
                  tình dục thì nhiều. Xưa nay, bốn chữ tài tử
                  giai nhân khắng khít với nhau, đã có tài tử
                  thì phải có giai nhân mới xứng đôi, đã có
                  giai nhân thì tài tử mới vừa kứa. Cho nay đệ
                  tử chưa từng gặp tuyệt thế giai nhân, còn những
                  phụ nữ có chút nhan sắc thì lại rơi vào tay
                  bọn phàm phu tục tử, như vậy há không tủi
                  phận hồng nhan lắm sao. Tài hoa của đệ tử hẳn
                  không còn phải nói làm gì, ngay cả tướng mạo
                  đệ tử cũng biết là không tệ, nhiều khi soi gương,
                  cho dù Phan An, Vệ Giới ngày nay tái sinh, đệ tử
                  quyết cũng không chịu nhường. Trời đã sinh ra
                  một nam tử thế này, chẳng lẽ không sinh ra một
                  gái nữ nhi thế kia cho xứng. Nay trên đời nếu
                  không có giai nhân thì thôi, đã có thì đệ tử
                  quyết tìm cho được. Vì vậy tuy đệ tử đã
                  quá hai mươi tuổi mà vẫn chưa có chỗ nào, ý
                  đệ tử không muốn phụ lòng trời đất đã
                  ban cho cả tài lẫn mạo. Đệ tử phải về tìm
                  cho được giai nhân mà lấy, rồi sinh dứa con
                  trai để nối nghiệp tông đường. Bấy giờ tâm
                  nguyện đã thỏa, không còn ham muốn gì khác, đệ
                  tử không những chỉ tự quay đầu trở lại, mà
                  sẽ cảm hóa vợ con cùng sang bờ bên kia. Sư
                  phụ nghĩ sao?"
 
 Hòa thượng nghe xong, im lặng một lúc rồi cười
                  lạt nói: "Nghe qua đoán biết cư sĩ có nhiều
                  ý nghĩ đen tối. Có điều ông trời sinh ra con
                  ngườ, tạo nên vạn vật lắm khi không đụng.
                  Nếu ban cho cư sĩ một hình hài xấu xí, thì có
                  phải với trí thông minh sáng suốt không điều
                  gì mà không hiểu rõ của cư sĩ, không chừng cư
                  sĩ có thể quay về với chánh quả. Chính vì vậy
                  mà xưa nay những người sứt cùi gãy gọng nhận
                  chịu hình phạt của trời, lại dễ trở thành
                  Tiên Phật. Cư sĩ được ông trời quá nuông
                  chiều, chẳng khác nào đứa trẻ được cha mẹ
                  tưng tiu, lúc nhỏ không hề bị đòn, bị mắng bao
                  giờ vì bậc cha mẹ sợ con khóc, con đau. Đến
                  khi lớn khôn, có làm điều sai trái mà bị quan
                  đánh đòn, triều đình kết tội, bấy giờ lại
                  trách cha mẹ xưa kia quá chiều chuộng. Đẹp đẽ
                  tài ba thật không phải là là một điềm lành
                  vậy. Cư sĩ cậy mình có tài mạo nhất đời, cứ
                  nằng nặc đòi tìm cho được đệ nhất giai nhân,
                  rồi nghĩ ra trăm phương ngàn kế hầu thõa mãn
                  điều nguyện ước, bấy giờ sẽ xảy ra mọi việc
                  có thể khiến cư sĩ sa vào địa ngục. Cư sĩ muốn
                  xuống địa ngục, hay muốn lên thiên đàng? Nếu
                  cam tâm muốn xuống địa ngục, thì hãy cứ đi tìm
                  đệ nhất giai nhân, nếu còn muốn lên thiên đàng,
                  thì hãy dẹp bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia đi,
                  mà xuất gia cùng hòa thượng già này"
 Bán Dạ Sinh nói: "Lời
                  sư phụ vừa nói rất có ý vị;có điều bốn
                  chữ thiên đường địa ngục e có phần khuôn
                  sáo cho hạng tầm thường,không giống lời lẽ
                  của một bậc cao tăng."
 Hòa thượng nói: "Nguyên tắc của tham thiền
                  chẳng qua là muốn tự giác ngộ mà tu thân, tự
                  lập ở chổ không sinh không diệt, tức là Phật.
                  Vậy há thực sự có thiên đường để lên
                  đó chăng? Cho dù vì thói nguyệt hoa mà phạm tội,
                  thì cũng chẳng qua là tội làm điếm nhục đến
                  danh giáo mà thôi. Vậy há thực sự có địa
                  ngục mà xuống đó chăng? Người làm việc thiện
                  thì lên thiên đường, kẻ làm điều ác thì
                  xuống địa ngục , quả là hai câu sáo ngữ. Đối
                  với người học thức như chúng ta, thì việc gì
                  cũng có thể thoát sáo được, riêng với việc
                  tu thân thì không thể thoát được tí nào. Rõ
                  ràng là thiên đường địa ngục đều không có
                  thật, nhưng cho dù không có thiên đàng, cũng
                  không thể dùng thiên đường để làm bậc tiến
                  lên cõi thiện; cho dù không có địa ngục cũng
                  không thể lấy địa ngục dể răn kẻ ác. Cư sĩ
                  chán nghe những lời khuôn sáo, bần tăng sẽ
                  gác bỏ chuyện âm báo trong tương lai mà chỉ nói
                  dương báo trong hiện tại, có điều nói đi nói
                  lại, e không tránh khỏi có vài câu sáo ngữ
                  giáo đầu. Nguời xưa có câu: "Mình không
                  dâm vợ người, thì người không dâm vợ mình",
                  quả là hai câu sáo ngữ hết sức cũ kỹ, hết
                  sức thô sơ, hết sức bình thường có từ hồi
                  nào đến giờ. Có điều, những kẻ tham hoa hiếu
                  sắc trên đời này có mấy ai thoát được
                  khuôn sáo này? Mình dâm vợ người ta, thì vợ
                  mình cũng bị người ta dâm; mình làm nhục con gái
                  người ta, thì con gái mình cũng bị người ta làm
                  nhục. Muốn thoát được khuôn sáo thì chỉ có
                  cách không gian, không dâm mà thôi; nếu muốn
                  gian dâm thì khó có thể tránh được búa rìu
                  của câu sáo ngữ. Cư sĩ muốn thoát sáo hay nhập
                  sáo? Nếu muốn nhập sáo thì cứ việc đi tìm đệ
                  nhất giai nhân, nếu muốn thoát sáo, thì xin dẹp
                  bỏ những ý nghĩ xằng bậy kia, cùng xuất gia với
                  hoà thượng già này."
 
 Bán Dạ Sinh nói: "Những lời củ sư phụ rất
                  thấu đáo. Có điều khi thuyết pháp cho bọn trẻ
                  con ngu dốt thì phải nói tận tình, thế nào cho
                  chúng toát mồ hôi hột mà không dám làm bậy,
                  còn như thuyết lý với bọn đệ tử chúng con,
                  e rằng không cần phải như thế. Ông trời lập
                  pháp tuy nghiêm, nhưng lập pháp không phải là
                  không có sự khoan thứ; trường hợp gian dâm
                  ắt bị quả báo tuy nhiều nhưng trường hợp gian
                  dâm mà không bị quả báo không phải là không
                  ít. Cứ đi kiểm tra từng nhà thì rõ ngay. Nói
                  chung lẽ tuần hoàn quả báo thật không sai, người
                  làm diều bất thiện không thể không biết đến."
 Hòa thượng nói:
                  "Theo lời cư sĩ, thì những hành động gian
                  dâm trên đời cũng có thể không bị quả báo
                  chăng? Chỉ sợ ông trời sẽ không để sơ hở
                  như vậy khi lập pháp, hay là vì cư sĩ mắt tai
                  trung hậu nên hóa ra như thế. Chứ theo bần tăng
                  thấy thì xưa nay chưa hề có sách nào ghi chép
                  trường hợp gian dâm với vợ người ta mà
                  không bị quả báo. Chỉ miệng đời truyền nhau
                  thôi cũng không biết cơ man nào mà kể, riêng
                  kẻ xuất gia thọ giới không tiện nói ra đấy
                  thôi, cư sĩ thử nghĩ lại xem. Tuy nhiên đi gian
                  dâm vợ con người ta còn tiện nói ra, chứ như
                  vợ con mình bị người ta gian dâm thì không tiện
                  nói ra, do vậy ít người biết. Chưa kể vợ giấu
                  chồng, con gái giấu cha, ngay cả người trong nhà
                  củng hkông biết thay, nên chuyện quả báo cứ
                  bảo làm gì có; mãi đến khi nắp quan đậy lại
                  thì mới biết lời xưa khong ngoa, bấy giờ đã
                  lộ liễu rồi, nhưng lại không thể nói ra cho người
                  khác biết. Bất luận mình gian dâm vợ con người
                  ta hay vợ con mình bị vì lẽ quả báo bị người
                  ta gian dâm, chỉ cần khi ý nghĩ gian dâm đã nảy
                  ra thì bất tri bất giác trong lòng của vợ con cũng
                  sẽ bộc phát bao nhiêu là vọng niệm. Có một
                  chuyện mà nhà nào cũng có xảy ra, người nào
                  cũng có lần qua như thế này; nếu có những người
                  đàn ông trong khi ân ái với người vợ xấu
                  xí của mình đã nghĩ đến một người đàn bà
                  xinh đẹp nào đó đã gặp lúc ban ngày, để tăng
                  thêm khoái cảm, thì cũng có ngững người đàn
                  bà lúc hành lạc với chồng xấu xí đã nghĩ
                  đến một người đàn ông đẹp trai nào đó đã
                  gặp lúc ban ngày để được khoái cảm hơn. Đấy
                  cũng là một hình thức quả báo. Quả báo trong
                  tâm tưởng còn là thế, huống hồ xâm nhập
                  nhà người ta, gian dâm vợ con người ta, thì
                  quỷ thần nào không thấy, trời đất nào không
                  giận, mà hòng danh tiết vợ con mình được trọn
                  vẹn? Bần tăng nói như thế, chắc không phải là
                  sáo ngữ, cư sĩ nghĩ có đúng không?
 Bán Dạ Sinh đáp: "Sư phụ nói rất chí lý,
                  riêng có một điều, dám xin hỏi lại sư phụ.
                  Kẻ có vợ mà đi gian dâm với vợ con người
                  khác thì vợ con mình sẽ bị quả báo, điều ấy
                  đã hẳn rồi. Nhưng dối với người không vợ,
                  không con, nếu đi gian dâm vợ con người ta thì
                  sao? Họ đâu có gí để chịu quả báo? Luật tròi
                  như vậy há không phải là thiếu sót hay sao? Ấy
                  là chưa nói trường hợp số vợ con của một
                  người thì có hạn mà nữ sắc trong thiên hạ
                  thì vô cùng. Thí dụ người ấy chỉ có một hai
                  thê thiếp, một hai đứa con gái mà lại đi gian
                  dâm vô số người khác, thì việc quả báo cho
                  dù có chăng nữa, cũng không có gì là công
                  bằng, như vậy có phải là vốn ít mà lời nhiều
                  hay không, ông trời sẽ tính sao đây?"
 
 Hòa thượng nghe Bán Dạ Sinh nói thế, thì biết
                  đây là một tay cứng đầu không gì lay chuyển
                  nổi, đành nử úp nửa mở nói: "Cư sĩ lý
                  luận rất sắc bén, bần tăng thực không dám
                  sánh lời. Có một điều, dó chỉ là lý thuyết
                  suông, không có chi làm bằng, phải đợi khi nào
                  sự việc xảy ra mới rõ. Cư sĩ hãy trở về tìm
                  giai nhân mà cưới, sau đó sẽ có dịp ngồi trên
                  nhục bồ đoàn mà tham ngộ. Từ đây về sau bần
                  tăng sẽ không động khẩu nữ. Chỉ có một điều,
                  đối với cư sĩ là người tài mạo siêu phàm,
                  bần tăng thực không nỡ dứt đi cho được.
                  Vậy thì sau này, vạn nhất cư sĩ vỡ được lẽ
                  đạo, xin hãy về với bần tăng. Kể từ ngày
                  mai trở đi, bần tăng sẽ ngóng cổ chờ".
 Nói xong hòa thượng lấy
                  giấy bút ra làm một bài thơ bốn câu năm chữ:Thỉnh phao bì bố đại
 Khứ tọa nhục bồ đoàn
 Tu cập sinh thời hối
 Hữu sai dĩ cát quan.
 Có nghĩa:
 Đã bỏ túi da mà đi
 Theo đường nhục bồ đoàn
 Phải kíp ngộ lúc sống
 Đừng chết mới biết sai.
 
 Rồi xếp tờ giấy lại trao cho Bán Dạ Sinh mà
                  nói: "Lão đầu đà thô kệch này không tự
                  lượng nên có bài kệ thường này. Thực ra,
                  đó chẳng qua là xuất phát từ lòng ưu ái đối
                  với cư sĩ mà thôi. Vậy cư sĩ hãy giữ lấy,
                  ngày sau sẽ có dịp xét nghiệm lại".
 Nói xong hào thượng đứng dậy với cử chỉ
                  như tiển khách ra về.
 
 Bán Dạ Sinh biết không tiện ngồi nán, tuy nhiên
                  vì nể hòa thượng là một bậc cao tăng, nên
                  không dám hậm hực bỏ đi, chỉ biết cúi đầu
                  tạ lễ, nói: "Tính đệ tử ngang bướng,
                  mong sư phụ từ bi tha thứ, ngày kia đệ tử có
                  trở lại, kính xin sư phụ mở lòng dung nạp".
 Nói xong lạy bốn lạy như lúc mới đến, hòa
                  thượng còn dặn dò đôi câu trước khi chia ly.
 
 Lai lịch của hòa thượng đến đây đã trình bày
                  xong. Từ đây về sau này, chỉ xin nói hoàn cảnh
                  Bán Dạ Sinh đắm chìm trong sắc dục mà thôi, tác
                  giả chỉ trở lại với hòa thượng trong hồi
                  cuối truyện.
 (Hết Hồi 2 ... Xin xem tiếp
                  Hồi
                  3) |