Lời nhà xuất bản
Tình dục là bộ môn thuộc, chi phối và bao trùm
ngũ dục, nhất là khi đã nhận thức rằng trong mọi
bộ môn thuộc khoa học nhân văn, nó luôn hiện diện,
ẩn hiện lung linh... càng làm chúng ta thêm khoan dung, tăng
thêm hiểu biết. Mà biết thêm rằng cùng tột của tính
dục lại là nghệ thuật kềm chế, thì đó là sự hành
dâm cao thượng hơn hết thảy.
Các cảm quan đủ vẻ do ngũ dục đem lại, nếu
hiểu là đáng buồn rầu, thì là buồn rầu thanh bai. Nếu
hiểu (cuốn này) chỉ cốt viết ra để khuyến khích sự
đắm đuối dục lạc thì đấy là loại dục lạc thô
trọc. Tính dục được loài người nghiên cứu, viết
ra, đã từng lưu hành ở khắp nơi, qua mọi thời đại
như Kama-Sutra (A? Độ), Nhục Bồ Đoàn, Đạo Ma Mật
Truyền, Ngọc Phòng Bí Kiếp (Trung Hoa),... thì độc giả
sẽ không coi bản dịch này chỉ chứa hậu ý khuyến
dâm.
Bản chất của tính dục thì chỉ có một. Cảm quan
tính dục thì khác nhau, tuỳ cách tuỳ người, tuỳ thời
: Nếu ăn ngon chả là điều nhân loại luôn tán
thưởng,
phải chăng nghệ thuật nấu nướng đã chẳng luôn luôn
được đề cao?. Tình dục cũng có điểm chung như thế.
Xưa Tố Nữ Bí Truyền được coi là pho sách phải
cấm,
dành riêng cho tầng lớp thuợng lưu, Trưởng giả
phong kiến của Trung Hoa, nay chúng tôi cố thực hiện
qua Việt ngữ với thiện ý và cẩn trọng. Cách thế
tương quan giữa nhân loại ngày nay ngày càng mật thiết
hơn : Đúng, sai, xấu, tốt. .. không hoàn toàn bị ai độc
quyền giải thích, tách bạch giản dị như xưa. Những tàng
ẩn, bí truyền cấm kỵ, phải tránh né của một thời,
ngày càng được bạch hóa. Tính dục, lâu nay đã là
một đề tài nghiêm cẩn, đúng đắn. .. đến với bất
cứ ai muốn tìm hiểu, suy ngẫm. ..
Nhà xuất
bản Xuân Thu
LỜI
DỊCH GIA?/span>
Trung Hoa có nhiều chuyện gợi trí tò mò của
thiên hạ, ngoài pho dịch lý - kho tàng vô giá của Đông
Phương - Trung Hoa còn
có "TỐ NỮ KINH", pho sách nói lên cái tuyệt vời
của chuyện lứa đôi vượt hẳn Kama Sutra-pho kinh điển
về nghệ thuật yêu đương của xứ A? Độ .
Tiếc thay, người xưa cố chấp, mang nặng tinh thần
bảo thủ, khăng khăng cho rằng thố lộ chuyện ái ân
là hành động làm đồi phong bại tục, phạm điều răn
cấm của thánh hiền ! Bởi quan niệm hẹp hòi như vậy
mà Tố Nữ Kinh bị giấu kín ở Viện Bảo Tàng đến
cả hàng ngàn năm chẳng mấy ai biết đến. (Ngoại trừ
các bậc vua chúa, hàng Vương tôn và các quyền thần
ở triều nội dành độc quyền hưởng thụ).
Trong khi đó thì thế giới Tây phương quan niệm
ngược lại, cho rằng sinh lý cũng là một trong những
nhu cầu cần thiết như đói ăn, khát uống, như không
khí và sự sống hàng ngày không thể thiếu được.
Thế thì mang vấn đề sinh lý ra luận bàn ngoài đại
chúng cũng như đưa vào học đường đâu phải là sự
xấu? Nếu có xấu chăng là bởi ta lạm dụng quá
đáng,
vượt cả vòng kỷ cương làm thương tổn đến luân
thường đạo lý...
Nhiều người khắt khe cho rằng Tố Nữ Kinh là tập
sách trăng hoa dâm dật, hướng dẫn con người đi đến
hành động bất chính. Thật là một điều lầm lẫn đáng
tiếc, họ có biết đâu rằng chính vì sự thiếu hiểu
biết về nghệ thuật ái ân mà bao nhiêu gia đình phải
tan vỡ. Tố Nữ Kinh không phải là một pho kinh " bướm
lả ong lơi" mà chính là một hướng đi, một lẽ
sống,
là kim chỉ nam, là vị lương y lỗi lạc, một nhà cố vấn
tuyệt vời đời sống lứa đôi đến răng long đầu
bạc .
Bác sĩ
Huệ Hồng Anh.
HIỂU BIẾT CÁC BÍ QUYẾT HÀNH SỰ
DỰA TRÊN ÂM DƯƠNG VÀ NGŨ HÀNH
Hoàng Đế nói với Tố Nữ rằng: "Ta cảm thấy
mình khí suy nhược, khi giao hợp thì không đồng nhịp với
người nữ. Bình thường thì lòng chẳng cảm thấy vui,
lại luôn luôn lo sợ hồi hộp như sắp có chuyện gì
nguy hiểm xảy ra cho mình. Tại sao vậy?"
Tố Nữ đáp: "Tất cả hiện tượng nói trên
đều do âm dương không điều hoà mà sinh ra.Â? dương
không điều hoà vì sinh hoạt phòng sự không đúng
cách.
Nếu tinh lực của nữ nhân cường thắng hơn nam nhân
thì chẳng khác nào như nước tạt vào ngọn đuốc, đuốc
sẽ tắt; nam nhân không kham nỗi nên không còn hứng
thú .
Nói cách dễ hiểu, sinh hoạt phòng sự
như nấu nương thức ăn phải phối hợp diều hòa giữa
lửa và nước mới có món ăn ngon. Nếu thấu triệt
nguyên tắc trên và thực hiện được thì sẽ hưởng
thụ sự lạc thú của nhân gian, bằng không thì thân
thể trở nên suy nhược có thể đến tán mạng nữa.
Lúc đó đâu còn gì vui thú nữa .
Bởi
vậy nhân gian phải thận trọng trong việc phòng the, tránh
đi ra ngoài nguyên tắc không đồng điệu nói trên."
GHI
CHÚ:
Hoàng Đế là một trong ba vị vua thời thái cổ :
Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế. Tương truyền Phục Hy
phát minh ra bát quái, nghiên cứu về âm dương ngũ
hành. A? dương là những thể đối nghịch nhau của sự
vật như trời-đất, mặt trời-mặt trăng, nam-nữ, trắng-đen,
ngày-đêm...
Phục Hy cũng là vị vua chỉ dạy cho nhân dân sự
kết hôn. Trong việc phòng sự nam nữ, Phục Hy bàn rằng:"
Trời (dương) chuyển từ phải sang trái, đất (âm)
chuyển từ trái sang phải. Nam nhân trong lúc giao hợp,
theo thuộc tính dương đó, chuyển động (sàng) sang trái
trong khi nữ nhân chuyển động (sàng) sang bên phải,.
Nam nhân như trời ở trên trùm phủ xuống dưới. Nữ
nhân như đất ở dưới nghinh tiếp lên trên. Vị thế
cơ bản của phòng the giao hợp là vậy, hai bên sàng
ngược chiều nhau và trên thúc xuống, dưới hẩy lên".
Hoàng Đế vốn người thuộc lưu vực sông Hoàng
Hà, là người lãnh đạo của mấy bộ lạc lớn tại
đây. Theo sử, ông sanh sống vào khoảng 2.550 trước
Công-nguyên, thông tuệ, đã phát kiến ra kim chỉ nam,
đã quan sát được sự vận hành của Thái dương hệ.
Trên mặt đất thì ông quan sát về những dấu vết để
lại do cầm thú chim muông từ đó xác định phái
đực cái của từng con. Về nhân văn, ông thiết lập
ra hệ thống chữ viết của người Trung Quốc thời đó.
Nhờ sự phát minh này, người Trung Hoa mới bắt đầu
ghi lại các chuyện xảy ra chung quanh mình lưu truyền lại
cho đời sau.
Về Y khoa, Hoàng Đế và sáu vị y sĩ trong nhóm
Chi-Bách hoàn thành một bộ Bách Khoa Y-Học có tên là
"Y học trọng điển" mà "Hoàng Đế nội kinh" là
một quyển ở trong bộ đó. Chi-Bách và những vị danh
sư lúc bấy giờ là những người cố vấn của Hoàng
Đế về những vấn đề y dược và là y sĩ của Hoàng
Đế.
Hoàng Đế có nhiều cung nữ nhưng giao hợp không
đúng phương pháp cho nên khi niên tuế vào độ ngũ
tuần thì thầnsắc suy nhược không còn tráng kiện nữa.
Ô?g mới đi hỏi Chi-Bách và Tố Nữ về cách thế
giao hợp dúng cách để khỏi suy nhược thân thể.
Trong sách Hoàng Đế nội kinh, thiên "Thượng cổ thiên
chân luận"có ghi sự vấn kế nầy như sau:
"Trẫm thường
nghe người thời xưa sống hàng trăm năm mà động tác
(tình dục) không suy
yếu. Người thời nay tuổi mới vừa khoảng năm mươi
mà động tác (tình dục) đã suy nhược...".
Chi-Bách đáp rằng : "Người xưa sở dĩ được
trường thọ vì họ hiểu thấu đáo đạo âm dương, từ
đó chuyện gối chăn được thực hành hợp lý. Lão
tử nói: "Vạn vật phụ âm nhi bão dương, xung khí dĩ
vi hòa". Bốn mùa, trời đất, âm dương, con người
phải "thuận theo" đó là nguyên tắc cơ bản của sống còn, nếu
nghịch lại hay vi phạm nguyên tắc tự nhiên này thì sẽ
sinh ra rất nhiều tai hại. Ví dụ như nguyên tắc xuân
sanh, hạ trưởng, thu liễm, đông tàng (muà xuân gieo
mạ trồng lúa, mùa hạ lúa lớn, mùa thu gặt lúa, mùa
đông gặt lúa cất vào kho). Nếu bây giờ không thuận
theo mà mà mùa thu hay đông lại gieo mạ trồng lúa thì
lúa sẽ khô chết, không lớn lên được.
Tố Nữ trả lời như sau: "Vấn đề Hoàng thượng
đưa ra đó, giải đáp trả lời có thể căn cứ theo
thuyết âm dương ngũ hành. Như tính nước cực mạnh
sẽ tiêu diệt được tính lửa, đó là nguyên tắc
gây ra thể lực suy yếu ở người nam. Trong trời đất
có năm yếu tố chánh (ngũ hành) là kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ. Chúng tương khắc nhau là mộc khắc thổ, thổ
khắc thủy, thủy khắc hỏa, hỏa khắc kim, kim khắc mộc,
mộc khắc thổ... cứ như vậy mà tuần hoàn mãi mãi.
Vậy thì nếu thuỷ tính (nữ nhân) quá mạnh thì
dễ hại tới hỏa tính (đàn ông). Mặt khác trong lúc
giao hoan cao trào tuyệt hứng của đôi bên so le thì cũng
gây nên hậu quả không tốt.
Một điều nữa là nam nhân sau khi xuất tinh xong
quá mệt lăn ra ngủ, trong khi đó nếu nữ nhân chưa
hoàn thành cao trào, còn đầy cảm hứng thì hậu quả
sự bất hòa hợp nầy là một bệnh trạng cần phải
sửa đổi hay chữa trị.
Nay Hoàng Đế sớm xuất tinh, suy nhược động tác
(tình dục) là vì không hiểu biết sinh hoạt phòng sự
một cách bình thường. Hậu quả là không cảm thấy
thống khoái mà là một trạng thái mệt mỏi. Tất cả
vì Hoàng Đế không thông hiểu thuỷ tính và hỏa tính,
không thông hiểu tệ quả của bất điều hòa âm
dương."
GHI
CHÚ:
Bác sĩ Kim Soai cho rằng sau khi bắn tinh xong, nam nhân
từ trạng thái sung sướng cực độ trở về trạng
thái không còn cảm giác và rất buồn ngủ. Bởi vậy
mới có nhiều trường hợp bẽ bàng trong đêm tân
hôn. Trước đó thì nữ nhân e dè, sợ sệt, nam nhân
"hoa ngôn xảo ngữ" để được tiến hành, nhưng
khi xong phần mình liền lăn ra ngủ đuốc hoa bỏ đó mặc
nàng nằm trơ khiến cho cô dâu từ đó có một tâm
trạng chán sợ chuyện chăn gối ái ân, có thể thành
bệnh lãnh cảm sau nầy.
Bác sĩ Kim Soai cũng cho biết là âm đạo càng
được dương vật cọ xát, người đàn bà càng cảm
thấy sướng thú hứng tình đến nỗi muốn từ chối
ái ân vì một lý do nào đó cũng không thể nào từ
chối được. Điều xác định nầy phù hợp với lời
của Tố Nữ nam nhâm hỏa tính, nữ nhân thủy tính.
Khi nước dâng lên cao (nước nôi tràn đầy đầm
đìa) lửa bị tắt (bắn khí, xìu, mệt). Khi nước bị lửa
đun sôi (cọ xát, chọc, đâm)
thì nước sôi ào ạt, phùn phụt...
NHIẾP BỔ VÀ CƯỜNG TINH
(Bổ
thận và cường dương)
Tố Nữ nói : " Có một người con gái tên Thái
Nữ rất thâm hiểu đạo âm dương", Hoàng Đế sai
Thái Nữ đi mời Bành Tổ cho mình thỉnh giáo về phương
pháp diên niên ích thọ (sống lâu).
Bành Tổ trả lời: " Giữ tinh khí, thu dưỡng
tinh thần. uống các thứ thuốc bổ dưỡng thì có thể
trẻ mãi không già. Tuy nhiên nếu đã có ba thứ trên
mà không biết cách giao hợp cho phải phép thì cũng
vô ích thôi.
Đạo giao hợp là hợp thành nhất thể với người
giao hợp. Xem kìa trời đất liền nhau thành nhất thể
nên mãi mãi trường tồn. Con người cũng vậy, không
khác gì. Nếu không biết nguyên tắc đó thì bị thương
thân bại thể có khi còn táng mạng nữa"
GHI CHÚ:
Hoàng đế vì trăm công ngàn việc nên người
đã mệt mỏi. Thêm chuyện tửu sắc nên thần kinh không
nhiều thì ít bị suy hoại, luôn luôn cảm thấy như mình
đang mang bệnh. Để cho Hoàng Đế tin tưởng thuốc thang
công dụng, các y sư trong triều mới bàn nhau đi mời
Bành Tổ tiên sinh là một vị triết nhân thông hiểu
thuật dưỡng sinh. Tương truyền Bành Tổ tiên sinh rất
thọ và dùng phương pháp nhiếp bổ (dùng thuốc bổ)
và cường tinh (làm cho tinh khí mạnh hơn, cường dương)
nên khi đã già mà vẫn thấy như thanh xuân và khí
thế giao hợp vẫn không giảm.
Thái Nữ, như Tố Nữ, là người con gái thật
đẹp lại thấu hiểu các phương cách phòng sự. Những
điều chỉ dạy của bà ta rất ích lợi cho cuộc dưỡng
sinh và đời sống chăn gối.
Sách "Liệt
tiên toàn truyện" có ghi lại truyện Thái Nữ
vâng lệnh của vua Chân Mục Vương (976 tr. Công
nguyên) đi hỏi Bành Tổ tiên sinh về bí thuật phòng
trung để về truyền lại cho vua. Từ đó về sau mục Vương
là người hưởng được kết quả diệu kỳ của hành
sự giao hoan theo đúng phương pháp.
Sách "Thập di ký" có ghi chuyện Vương
mẫu xuống trần ăn ở cùng với Mục Vương của vùng
Vị Châu thời Đông Tấn. Lúc nầy Mục Vương đã hơn
50 tuổi. Vương mẫu chỉ dẫn Mục Vương cách giao hoan và
hai người đã hưởng một đêm sung sướng tuyệt trần
.
Sách có nói thêm là trong đêm dó Vương mẫu
lấy ra trong âm đạo một "hạch tổ" bảo vương nuốt
đi vì rất bổ cho việc dưỡng sinh và cường tinh. Sách
y học Trung quốc có ghi là hạch nầy dùng chữa bệnh
tạng suy, cải lão. Hạch còn trị được bệnh tinh thần
không an định, giúp cho người bệnh cảm thấy an định
thơ thới tâm hồn.
Từ thời Hán y giới Trung Hoa đã có "Cam mạch
đại tổ thang" là thang thuốc an thần trị bệnh cho phụ
nữ mà chất chính vẫn là hạch tổ lấy từ trong âm
đạo.
Trung quốc vốn nổi tiếng về các thang thuốc cường
tinh tráng thể. Các thứ nầy vốn khác xa với các thứ
thuốc kích dâm ngày nay. Thuốc kích dâm kích động thần
kinh cho hứng tình gợi dục mà không giúp thân thể
bổ dưỡng, không giúp cho nam nhân tiết khí (tiết giảm
xuất tinh). Thuốc cương tinh tráng thể của trung quốc
trái lại là thứ giúp thân thể chống lại bệnh suy
nhược do các cách giao hợp không đúng phương pháp
sanh ra mà vẫn giúp được người dùng cảm thấy thích
thú trong khi giao hoan.
CHƠI NHIỀU ÍT MỆT
(Da ngự,
tiểu tiết)
Thái Nữ nói: "Xin Bành Tổ tiên sinh chỉ dãn
thêm về đạo giao hợp để giữ được thân thể
tinh tráng."
Bành Tổ nói : "Đạo lý nầy nói ra thì rất dễ
hiểu thôi, chỉ hiềm loài người không theo hoặc theo
mà không tin thôi. Hoàng đế hiện tại trăm công ngàn
sự, tâm thần mỏi mệt không thể nào thấu đáo các
lời giải thích về phép dưỡng sinh. Ta chỉ xin nói về
trương hợp Hoàng Đế có thể làm được mà thôi.
Hiện trong cung có nhiềi phi thiếp, chỉ cần thâm
hiểu cái đạo lý giao hợp thì cũng đã nắm được
phương pháp nhiếp dưỡng rồi. Nguyên tắc là "đa dữ
niên thanh nữ giao hợp", tịnh thả lũ giao bất tiết"
nghiã là giao hợp cùng thật nhiều cô gái trẻ trung
nhưng tiết giảm sự?bắn khí xuất ti nh. Tiết giảm
được bắn khí thì thân thể sẽ đượcnhẹ nhàng dễ
chịu, không bệnh tật nào có thể sanh ra dược. "
GHI
CHU?
Bành Tổ chú trọng tâm lý trị liệu. Vua nhiều
việc nên mệt mỏi, ông khuyên vua nên về hậu cung vui
cùng cung nữ quên bớt những chuyện lo âu về quốc
sự vốn làm cho con người dễ sút giảm sinh lực.
Nhưng vui chơi nhiều (đa ngự) mà không được mất
sức, càng ít xuất tinh (tiểu tiết, tiết : rỉ ra, lộ
ra, chảy ra) càng tốt.
Lựa gái thanh xuân trẻ đẹp để giao hợp
đó là nguyên tắc tâm lý người đàn ông thấy
mình hưởng nhiều, mình hơn người, may mắn hưởng
được của quý là sự thanh xuân của người con gái
.
Gần đây áp dụng nguyên tắc nầy, bác sĩ
Havelock Ellis khuyên các cặp vợ chồng nên tạo
thanh xuân cho nhau trong việc chăn gối. Hai bên nên vui
vẻ giao tình để cùng nhau thấy
như mới như trẻ. Người chồng vui vẻ trong sự
gợi xúc cảm, người vợ chải chuốt trang điểm, tạo
thêm vẻ thanh xuân cho chính mình và cho sự giao hợp.
Thống kê cho thấy có nhiều cặp vợ chồng lâm
vào tình trạng càng lâu xa đêm tân hôn hào hứng
thì càng có sút giảm trong niềm thích thú gối chăn.
sự quen nhàm là một yếu tố, khiến tạo nên tình trạng
miễn cưỡng. Ta tránh tệ hại nầy bằng cách hợp tác
với nhau, làm như mới, đối với nhau như mới gặp
lần đầu thì sự khoái sướng mới lâu dài trong cuộc
sống vợ chồng được.
Nhìn lại câu nói của Bành Tổ bằng con mắt của
người hiện đại ta thấy ông khuyên nếu muốn hưởng
hạnh phúc đời thì phải tạo cho có được một tinh
thần vui vẻ (bớt lo lắng), một thân thể khỏe khoắn
(ít bắn khí, hưởng tuổi xuân và sự vui vẻ của người
bạn tình ). Đời nay con người phải sống trong một xã
hội bận rộn, tâm lý dễ bị xáo trộn phiền muộn bất
an từ đó dễ sinh ra bệnh hoạn. Kinh Tố Nữ
chương nầy lời của Bành Tổ tiên sinh là một
lời khuyên tốt cho chúng ta, nếu chúng ta biết cách
sống.
CHÍN LẦN CẠN MƯỜI LẦN SÂU
(Cửu
thiển nhất thâm)
Tố nữ nói với Hoàng đế: "Khi hành sự thì
phải coi người con gái như ngõa thạch (gạch ngói), tự
coi mình như ngọc quí (kim ngọc). Khi nhận thấy người
con gái tới mức khoái cảm, thân thể vặn vẹo luôn
thì phải mau mau rút dương vật ra khỏi âm hộ."
Nếu muốn chinh phục nữ nhân thì khi giao hợp phải
đặc biệt cẩn thận. Trên mình người đẹp, khi hứng
tình muốn giữ cho khỏi bắn khí không phải là dễ, nó
kéo mình theo khó lòng kiềm chế, cẩn thận lắm mới
kềm chế được. Sự kiện nầy chẳng khác nào thắng
sợi dây cương mục rã sắp đứt vô con ngựa chứng,
hay đang đứng trên bờ vực thẳm của chóp núi cao.
Chỉ cần sơ ý một chút thì tai hại sẽ xảy ra không lường
được
GHI
CHÚ:
Căn cứ trên các trắc nghiệm y học người ta
thấy rằng nam nhân rất dễ hứng tình và khi tình hứng
tới cao độ, bắn khí thì không còn làm gì được nữa.
dương cụ trở nên xìu mềm, vô năng, ở bên cạnh
người đẹp lòng cũng dửng dưng nguội lạnh. Nữ nhân
trái lại thời gian bắt trớn hứng tình chậm, sự sờ
mó rờ rẫm (ái phủ) trong giai đoạn
đầu rất cần thiết để đưa nàng đến tình trạng
sẵn sàng nhập cuộc. Vì vậy khi hai người xáp lại,
đã có một sự so le về thời gian hứng cảm. Lúc
nam nhân đạt tới cao điểm hứng thú thì nữ nhân
nhiều khi chưa đạt được cao điểm nầy. Nếu không cẩn
thận, không kềm được cương con nộ mã mà bắn khí
thì cuộc giao hợp chấm
dứt trong sự bẽ bàng của nữ nhân.
Tố Nữ nói :
"Coi nữ nhân như ngõa thạch? là
muốn nói phải nhẹ nhẹ nương tay đừng mạnh bạo quá
mà ngói gạch vỡ bể đi. Sờ mó nhè nhẹ, ái phủ
khắp toàn thân nữ nhân để kéo đến sự đồng bộ
hứng tình sau này, cũng là để chuẩn bị cho có đồng
điệu trong lúc tuyệt cùng sướng khoái.
"Coi mình như ngọc thạch" là mình
phải quý mình, tiết kiệm tinh khí không bắn khí
quá sớm, chưa phải lúc. Đối phương chưa sẵn sàng
thì sự xuất tinh, riêng mình cũng chưa hưởng tuyệt
cùng của đời sống ái ân.
Vấn đề tuyệt hứng phải phối hợp, phải đồng
bộ trong sự giao hợp nam nữ rất là quan trọng. Nam
nhân không được chỉ nghĩ đến cái sướng bắn khí
của mìnhmà phải đoán coi thái độ của nữ nhân nữa.
Tập quán của người Do Thái kết tội "cưỡng
dâm sau hôn nhân" (hậu hôn cưỡng dâm) nếu người
chồng chỉ muốn thỏa mãn dục tính tiến hành giao hợp
trong khi người vợ chưa sẵn sàng cuộc mây mưa hay không
thể có được đồng bộ sướng khoái .
Ở đời cổ Trung quốc có một số ngưới biết
lợi dụng nguyên lý châm cứu để kích thích dục tình
của nữ nhân trước khi giao hợp, và họ đã đạt
được kết quả làkhiến cho nữ nhân "xuân tình bộc
phát" sẵn sàng đáp ứng để cùng nhau đạt tớt
cao điểm sướng khoái cùng lúc. Nguyên tắc châm cứu
là " kích thích 14 kinh mạch và các đường huyệt đạo
liên quan tới tình dục " (thập tứ kinh lạc huyệt đạo
tuyến ).
Thời xưa kỹ thuật vuốt ve trước khi ái ân
là:
Mân mê từ các ngón tay, bắt đầu từ ngón giữa
tới ngón cái, các ngón cọ sát vào nhau. Ban đầu còn
thoa bóp các ngón sau rờ rẫm từ từ lên cánh tay
rồi lên bả vai.
Xoa bóp nựng nịu ban đầu là ngón chân cái rồi
sang ngón bên cạnh, từ từ rờ lên mu chân tiến lên
tới phía bên trong đùi.
Sau đó thì sờ mó nựng nịu toàn thân. Kế tiếp
nam nhân dùng tay trái ôm sát lưng nữ nhân tay phải
từ từ di động lên vuốt ve những vùng mãnh cảm
nhất của nữ nhân đồng thời tiến hành những động
tác hôn hít. Hôn hít thì cũng tiến hành chậm chậm,
đầu tiên hôn cổ, sau hôn trán. Dùng lưỡi liếm cổ,
phía trước và phía sau cổ là những vùng cần
được liếm nhất. Kế tiếp là liếm đầu vú nàng,
cắn nhẹ lổ tai nàng để cho nàng rùng mình xúc cảm
Sau đó khi thấy tình trạng đã chín mùi thì áp
dụng nguyên tắc " cửu thiển nhất thâm hữu t tả
bãi nhược hoạnh hoành". Đây là bí quyết của đàng
trai để tạo hứng thú tuyệt đại cho nữ nhân cùng
mình giao hợp mà cũng là phương cách chống xuất tinh
sớm. một căn bệnh đem đến bẽ bàng cho nhiều nam nhân
.
"Cửu thiển" là chín lần đâm cạn, đâm
nhẹ nhàng để chuẩn bị cho nữ nhân ý xuân phơi phới,
tâm hồn bồn chồn như là khỉ chuyền ngựa chạy. Lúc
đó mới áp dụng" nhất thâm", đâm mạnh lút vào
sâu không chừa chút nào. Cho em hết những gì anh có.
Thâm sâu, quy đầu cọ sát vào âm hộ tạo một trạng
thái hứng thú tột độ. A? hộ lúc đó có khả năng
mở ra bóp lại. Nở ra
để đón nhận hết, rút lại để bóp chặt ôm khít dương
thể trong trạng thái nhất thể hoà đồng .
" Hữu tam tả tam" là kích động hai bên
bờ của âm hộ. Cọ xát bên trái ba lần, bên phải
ba lần. Nữ nhân lúc nầy cảm thấy đâu đâu cũng
có dương thể cọ vào, sự sung sướng không thể nào
lường được. Như vậy động tác aí ân không chỉ là
một cách tiến vào rút ra mà biến hóa dương vật bơi
lội như con cá, thân mình thằng nhỏ chuyển động hai
bên, bò như con trùng khi lên khi xuống. Tất cả mọi
vùng khoái cảm của âm đạo đều được tiết xúc
cọ xát, bên mép, trong sâu, bên nầy, bên kia ; nữ
nhân không thể nào cưỡng lại mình được nữa,
khoái cảm sẽ lên đến tột độ kịp thờivới tột
độ của nam nhân .
Thời Tuỳ Đường có cuốn sách nói về chuyện
ái ân là " Ngọc Phòng Bí Quyết "
bàn về nghệ thuật phòng trung, trong đó có câu
thiệu "bát thiển nhị thâm, tử vãn sanh hoàn" cũng
tương tự nhưng bổ xung cho nguyên tắc "cửu thiển
nhất thâm tả tam hữu tam " nói trên.
Bát thiển nhị thâm chẳng qua là thay đổi số lần
sâu đâm vào, thường là theo lời yêu cầu của nữ
nhân. Nên nhớ phải có cạn sâu, không được sâu
cả như nhau vì đâm vô một chỗ khoái cảm sẽ bị tê
liệt đi giống như gãi lưng gãi nhẹ mạnh khác nhau,
thay đổi chỗ này chỗ khác thì khoái và đã ngứa,
nếu chỉ gãi mạnh một nơi thì chỉ có tróc da tróc thịt
đau đớn mà thôi.
" Tử vãn sanh hòan" là " khi chết đi vào,
khi sống đi ra". Dương
vật ở trong âm hộ đã lâu, ấm áp khoái lạc rất
dễ không thể tự thắng mà phải bắn khí, khi thấy nó
có mòi dương lên cực đại sắp xuất tinh thì phải
rút ra khỏi âm đạo - đi ra khi còn cứng còn sống -
Bên ngoài nó nghỉ ngơi một chút thì bị xìu, đó là
lúc cho nó xung trận lại nữa - đi vào lúc mềm, lúc
chết- Cứ thế quá trình tử vãn sanh hoàn thì cuộc
vui kéo dài được nhiều lần khoái cảm.
Có sách nói "nhược nhập cường
xuất" cũng là cách nói khác của tử vãn sang hoàn
mà thôi. Lúc hơi mềm, xìu cho vào, lúc cứng
quá độ sắp bắn khí thì phải rút ra. Càng theo các
nguyên tắc trên càng hưởng được cuộc vui kéo dài
mà hòa thuận vợ chồng vì
kéo được lúc cực điểm khoái lạc của hai người
nam nữ về cùng thời điểm.
(Sách
gốc bị mất một đoạn)
Nay, Trang Tử có truyện Hoa Đà (145-280 Công nguyên)
là danh y của Trung Quốc thời cổ đại. Hoa Đà rất rành
về phép đạo dẫn cổ truyền. Quan sát loài gấu leo cây,
ông sáng tác ra cách luyện tập tứ chi. quan sát năm
cách vận động của phi cầm, ông đặt ra cách luyện
tập để thân thể tráng kiện, tinh thần thoải mái. Nhờ
theo phép đạo dẫn Hoa Đà sống trường thọ, năm 99
tuổi tay mắt vẫn còn sáng tỏ, răng chưa rụng cái nào.
Ngày nay, ta nói mà không sợ, phép đạo dẫn là
những động tác co duỗi, xấp ngửa, đi ngồi, đứng
lên quỳ xuống, đi bộ, hô hấp...
có tác dụng lưu thông máu huyết để cường
sinh khang kiện thân thể .
Đồng thời với Hoa Đà có ông Lãnh Thọ Quang
cũng là người thực hành viên mãn phép đạo
dẫn. O?g thường vận động đầu cổ và hít thở thật
sâu lại áp dụng thành công các bí quyết phòng trung
nên khi đã hơn 160 tuổi tuy đầu tóc đã bạc mà thần
khí vẫn như người thanh xuân. bí quyết phòng sự của
ông ta là " thái âm bổ dương". gặt hái thu lượm
cái âm khí để làm bổ cái dương khí.
Sách Hậu hán thư, trong các truyện về phương
thuật có ghi ở quận Thượng Đãng, tỉnh Sơn Tây có
người tên Vương Chân tuổi gần 100 mà mặt hồng hào
rạng rỡ như người chưa quá ngũ tuần. Bí quyết trường
thọ của ông nầy là thực hiện phép "thai tức " và phép
" thai thực".
"Thai thực" có nghĩa là chỉ ăn những gì sanh
ra từ bào thai mà thôi, tỷ dụ như thịt bò, thịt heo...
không ăn những gì có nguồn gốc mễ cốc.
Thời cổ Trung quốc htuật dưỡng sinh ngoài những
vận động thân thể và hô hấp còn để ý đến sự
ăn uống đầy đủ (thai thực ) và thỏa mãn nhu cầu
sinh lý. Như vậy sự sinh hoạt mới quân
bình không vì một mặt nào của đời sống mà
hủy bỏ mặt khác của đời sống. Sự quân bình đó
làm cho con người được kiện khang và trường thọ.
Theo khoa học hiện đại thì:
"Đạo dẫn
" là thể thao thể dục,
các loại hoạt động làm cho giãn gân cốt, bắp thịt
được cứng rắn, thân thể được kiện toàn.
"luyện khí" là phương pháp thở hít
không khí đúng cách, thở ra hết chất hơi đã bị phổi
thải hồi, hít vô không khí mới để giúp cơ thể lọc
máu.
Hai
cách nầy ngày nay ai năng chăm chỉ thực hành thì sẽ
có sức khỏe lâu dài diên niên ích tho? trẻ trung
thoải mái .
Đồng hương với Vương Chân có
Diệc Mạnh Tiết thực hành phép ngưng thở, ông
ngồi yên tạm ngưng hô hấp, thân mình bất động trong
khoảng 100 ngày. Điều nầy phù hợp với những khám
phá về thuật du già ở A? Độ, có loại khiến cho
người luyện tập có khả năng "công đông miên",
ngủ trong mùa đông, lúc đó hô hấp thật chậm nhẹ
nhàng như gần đứt, động mạch đập rất khẽ cơ hồ
như không còn nữa, Những người nầy có thể chôn
mình trong hầm sâu dưới đất không ăn trong vòng một
tháng mà không nguy hiểm gì đến tính mạng bởi vì chính
họ hít thở thật ít không khí, uống một số lượng
cực nhỏ nước và tiêu thụ một phần nhỏ thể lực
của họ để bù trừ .
Người xưa dùng phương pháp hô hấp ép bụng
phối hợp với phép thực tiếp để trừ căn bệnh
già nua suy nhược, bệnh áp huyết cao và táo bón. Họ
còn dùng khí công để trừ bệnh thần kinh suy nhược,
bệnh đau bao tử và bệnh kết hạch. Hai phép
dưỡng sinh nầy chẳng qua là ngồi yên hô hấp (phép
tĩnh tọa của võ lâm)
"Thái cực quyền " là do Hoa Đà quan sát ngũ
cầm mà đặt ra. Thái cực quyền gồm 24 động tác.
Tuy các động tác thay đổi nhưng từ động tác nầy
sang động tác kế tiếp không đứt đoạn mà là các
động tác liên tục của nhau, biến chuyển tương hợp
từ từ mà thành, rất ích lợi cho sự luyện tập
thân thể nhất là khi hơi có tuổi.
"Bát đoạn cẩm" cũng tương tự như thế. Các yếu tố luyện tập
là tập trung ý chí, thống nhất tinh thần để điều hòa
hô hấp, tuy toàn thân vận động nhưng phải giữ phịp
thở sao cho tự nhiên, nhẹ mà sâu. Mỗi ngày càng tập
hít thở sâu càng tốt.
Cả hai phép thể dục phịp điệu nầy
dùng phòng ngừa và trị các chứng áp huyết cao, tinh
thần khẩn trương, đau bao tử bệnh tim và nhiều bệnh
khác. Đối với hệ thống tuần hoàn và hệ thống thần
kinh, cơ quan hô hấp, cơ quan tiêu hóa cũng rất có hiệu
quả.
Kinh Thái Cực Quyền có ghi người luyện tập phải
hô hấp do đan điền. Đan điền là danh từ dùng trong
khoa châm cứu chỉ một trong ba vị trí trong người. thứ
nhất là trên đầu (đại
não), thứ hai ở hoành cách mô, thứ ba ở rốn. Căn
cứ vào các sách vở của đạo gia thì đan điền là
chỗ trọng yếu nhất trong cơ thể con người. Vậy chữ
đan điền nói trong kinh thái cực quyền là chỉ chỗ nầy.
Khi hô hấp có thể để dưỡng khí tồn trữ tại đây
để duy trì "tâm bình khí hòa tình tự an định" (cái
tâm hồn được bình tĩnh, cái khí được điều hòa,
cái dục vọng đầu mối của tình dục được an định).
Y giới Mỹ gần đây nghiên cứu về Thái Cực Quyền
và Bát Đoạn Cẩm đều công nhận khả năng làm cho
tâm an và bình ẩn cái tình dục.
Phép hô hấp đan điền được luyện tập dùng
cho trường hợp phòng sự mà thiết giảm xuất tinh,
có mục đích điều tức dưỡng khí tăng gia khí lực
trong trường hợp bất lực hành sự.
Nội dung hô hấp đan điền người xưa có ghi lại
trong sách. Trang Tử có nói : "Chân nhân hô hấp thâm
nhập cước, phàm nhân hô hấp tiển tại hầu " nghĩa
là bậc chân nhân hít thở không khí vô đến chân,
người thường chỉ hít thở được không khí vô đến
họng mà thôi. Đại ý khuyên luyện tập hít thở không
khí mới để bài trừ mệt mỏi trong người
Đời Động Tấn có người Cất Hồng đề xướng
lối "thai tức" nghĩa là thở như thai nhi trong bụng
mẹ, thở bằng mũi, không thở bằng miệng, hgít vào
thật lâu sau mới từ từ thở ra. Cát Hồng khuyên
sau khi hít vào phải đếm đến 120 tiếng mới từ từ
thở ra mà số lượng không khí thở ra phải ít hơn
số lượng không khí hít vào có như vậy không khí
trong lành mới tòn tại trong thân thể. người siêng
năng luyện tập có thể kéo dài thời gian giữ hơi
trong bụng đếm đến 1000 mới phải thở ra. Ai luyện đến
mức nầy có thể phản lão hoàn đồng, vĩnh bảo thanh
xuân không bao giờ già .
Phép thai tức là phương pháp giảm bớt thở ra
thán khí, tích tụ dưỡng khí trong cơ thể, phù hợp với
quan điểm y học ngày nay.
A? dụng nguyên tắc nầy trong việc phòng sự là
cách giữ lại không cho xuất tinh bằng cách hít hơi
thật dài vô phổi nìn hơi thật lâu mới thở ra tư từ.
Lám như vậy nhiều lần khi thấy mình sắp bắn tinh. Ở
Trung Hoa có thuật "thái âm bổ dương" tức thâu lượm
âm khí để bổ cho dương khí và "thái dương bổ âm"
là nguyên tắc áp dụng cho nữ nhân sẽ bàn đến
ở những chương kế tiếp.
Nam nhân không thể lãng phí tinh dịch của mình, mỗi
lần xuất tinh là mỗi lần
phải có hiệu ích. Khi nữ nhân lên đến cực
độ khoái lạc thì âm hộ sẽ có sức hút rất mạnh,
quy đầu của nam rất khó lòng mà cưỡng lại để rút
ra, lúc đó âm đạo sẽ hút tinh dịch của nam nhân vào
cơ thể của nữ nhân để sau đó biến thành tinh dịch
của nàng.
Cổ truyền ở Trung quốc có phương pháp luyện tập
gọi là "tiểu châu thiên" là khi ngồi yên tĩnh tọa
dương khí từ đan điển (chỗ rốn), tiến lên hội âm
(giữa cơ quan sinh dục và bàng quang) xuyên qua giáp-suy
(giữa xương sống) vào ngọc-chẩm (sau ót) tới nê-
hoàn (đại não), xuống đài trung (giữa hai vú) trở
về lại đan điền là xong một quá trình. Cứ như vậy
mà điều khiển dưỡng khí chu du, công phu nầy phải
luyện đến hai ba năm mới xong. Nam nhân đạt được
pháp môn "tiểu châu thiên" khi giao hợp dương cụ
và âm hộ phối hợp với nhau mà thực hiện quá trình
tiểu châu thiên. Nữ nhân trong lúc tuyệt hứng, nguyên
khí bị hút sẽ phần khoái lạc không bao giờ nghĩ đến
chuyện chia tay.
Tố nữ khi nói về luyện tập thứ phương pháp
tuyệt diệu nầy có bảo phải phối hợp với phương
pháp đạo dẫn, cả hai phối hợp sẽ giúp cho nam nhân
đạt được mục đích hoàn tinh
Trong quyển "Ngọc Phòng Bí Quyết" có nói nếu
đàn ông tập luyện được cách hô hấp đằng bụng,
cho không khí vào sâu tới bụng (thật ra là hít thật
nhiều hơi) thì sẽ tăng thể lực và trì lực (sức
chống chỏi), khi giao hợp chống lại xuất tinh chỉ cần
hít hơi dài vào đan điền đếm từ một đến 30 mới
thay hơi khác, như vậy dương cụ sẽ cương cứng lâu hơn
và chống chỏi lại khuynh hướng xuất tinh. Cho có hiệu
quả hơn, áp dụng thêm phương pháp "tử vãn sinh lai"
đã nói ở trên nghĩa là khi cương cứng quá
phải rút ra, đợi hơi xìu xuống mới tiến hành trở
lại.
Nữ nhân có phương pháp "hành khí" do nàng
Triệu Phi Yến đời hán truyền lại. Nàng luyện tập
bằng cách lấy dây lụa cột ngang lưng và tập chuyển
động phần từ eo xuống mà phần trên không cần chuyển
động. Sau đó nàng dùng thuật "bế khí chỉ tức" nín
thở một hơi thật lâu. Với phương pháp hành khí, nữ
nhân có thể co rút bóp mở âm hộ khiến dương vật
cảm thấy sung sướng tuyệt đỉnh và từ đó rùng mình
bắn tinh.
Công dụng của phương pháp nầy là làm cho dương
vật được bóp chặt, nam nhân cảm thấy nữ nhân như
mới, bóp, từ đó không thể cưỡng nỗi chuyện xuất
tinh .
Sách " Hương Muội" nói rõ ràng hơn về phương
pháp co bóp nầy. Khi tiến hành giao hợp phải có thứ
tự :khi thằng nhỏ tiến vào thâm cung, cửa thâm cung
phải mở ra đón chào. Khi chàng đã vào đến nơi thì
cửa thâm cung đột nhiên đóng lại ôm chặc chàng,
như mừng rỡ. Quá trình đâm vô rút ra của dương vật
được quá trình mở bóp của âm hộ phối hợp tạo
cho nam nhân cảm giác tuyệt vời.
(Hết
Phần 1 ... Xin xem tiếp Phần
2)
Xin các
bạn vui lòng nhấp chuột vào các bản quảng cáo để
ủng hộ Cõi Thiên Thai! (Vietnamese
Stories)
Last Update: Nov 15, 2000
This story has been read (Since Oct 1, 2000):
Counter 
|