CÁC PHƯƠNG
THỨC YÊU NHAU CHO KHOẺ MẠNH CƯỜNG TRÁNG.
Các phương thức yêu nhau để chữa trị cho nhau
khỏi tổn thương, bệnh hoạn .
Ngoài chín phép hay tư thế đã được lược trình
ở trên còn tám phép làm cho thân thể thêm cường
tráng, bách bệnh tiêu trừ gọi là " Bát Ích " -
tám điều lợi ích - lại có bảy phép gọi là "Thất
Tổn" - bảy thứ suy kém để chỉ bảo cho nam nữ cách
chữa trị căn bệnh làm suy mòn thân lực. Tất cả những
phép trên đều căm cứ vào mục đích làm cho âm dương
điều hòa, dụng kỹ thuật tính giao mà làm cho nam nữ
được thú sướng kiên cố mà trị bệnh và cầu mạnh
khỏe sống lâu.
Căn cứ vào Đông Y, phân thành nội ngoại thì
bên trong con người ta có ngũ tạng và đó là gốc
rễ để cho ngoại hình (dáng dấp bên ngoài) của ta phát
triển. Cả hai nội ngoại bổ cứu, điều hòa thì thân
thể ta sẽ được cường tráng, vô bệnh, sống lâu.
Trong sách "Hoành Đế Nội Kinh Tố Vấn" có nói
rằng :
"Tâm khỏe thì máu đỏ tươi nhuận, Phổi khỏe
thì da mở, lông trơn, Gan khỏe thì gân mạnh, móng chân
cứng rắn; Tỳ khỏe thì thịt dai, môi đỏ, Thận khỏe
thì xương thẳng chắc, tóc râu rậm mướt".
Bát Ích Pháp chính là để giúp cho Tâm, Phế,
Can, Tỳ, Thận bổ khỏe ngõ hầu con người ta được
vui hưởng cái sức mạnh, sự bền bỉ sáng suốt mà
ngũ tạng đã là nguyên động lực. Tư thế nam nữ áp
dụng trong Bát Ích Pháp này cũng là do "Chín Thế"
đã trình bày ở trên mà biến hóa ra và có nhiều
phụ thế nằm nghiêng hơn là ở các "thế mẹ"
nguyên thủy. Người nữ trong "Bát Ích Pháp"
thường phải co đầu gối, dạng đùi ra lưng phải
dẻo để xoay chuyển hợp tác vận động. làm cho đung
thì lợi ích vô kể, có thể nói rằng kéo dài
được thời thanh xuân và tới già vẫn thiếu tráng.
BÁT ÍCH
Phép
Bát ích thứ nhất :
Cố tinh (Bền bỉ tinh khí)
Người nữ nằm nghiêng, xoạc hai đùi,
đùi trên cong cong lại vào thân mình. Nam nhân cũng
nằm nghiêng, đối mặt với bạn tình. Dương cụ ấn sâu
vào mật cung, rút ra ấn vào 18 lần liên tiếp. Hết số
đó thì ngưng, dưỡng thần.
Mỗi ngày "luyện tập" hai lần như vậy. Tập như
vậytrong 15 ngày thì nam nhân dịch
đầy đủ; nữ nhân trừ được bệnh nguyệt qúy
tháng tháng xuất ra nhiều hơn bình thường.
Phép
Bát ích thứ hai :
An Khí (Luyện khí khỏi vọng động, thần thái
nhẹ nhàng)
Người nữ nằm ngữa, đầu gối trên một chiếc
ghế cao, hai chân dang thẳng, dạng đùi, nam nhân quỳ
xuống giữa hai đùi người nữ, phủ lên người nữ
và cho dương cụ xâm nhập vào xuân cung, rút ra cho vào
27 lần. đúng số này thì rút lui (để trách xuất tinh
). Được như thế tâm thần sẽ được an tĩnh, phong
thái sãng khoái, thơ thới, không biết âu lo, bồn chồn.
Nữ nhân cũng được lợi, khỏi chứng lãnh âm, một
bệnh diệt trừ khoái cảm giao hợp mà nhiều nữ nhân
mắt phải.
Pháp này phải áp dụng ngày 3 lượt ;liên tục
trong hai chục ngày, sẽ thấy kiến hiệu.
Phép
Bát tích thứ ba :
LỢI TẠNG (Bổ ích cho ngũ tạng )
Người nữ nằm nghiêng hai đùi co lên, để lộ
toàn bộ phía mông. Người nam nằm nghiêng phía sau đưa
dương cụ vào mật cung, ra vào 36 lượt. Rồi thêm quân
(thế này ta quen gọi là nằm theo lối úp thìa). Mỗi
ngày thực hành 4 lần. 20 ngày sẽ thấy kiến hiệu :
trai thì tâm bình, khí hòa, nữ thì tuyệt chứng lãnh
cảm (lợi ích cũng như phép 2).
Phép
Bát tích thứ tư :
CƯƠNG CỐT (Mạnh xương, gân)
Người nữ nằm nghiêng. Đùi bên trái co lên
bụng. chân phải dũi thẳng. Người trai nằm lên trên,
hạ bụng đè lên mông người nữ đưa dương cụ vào
mật cung, ra vào 15 lần rồi rút lui luôn.
Mỗi ngày thực thi 5 lượt như thế, trong mười
lăm ngày, nam nữ sẽ thấy gân xương khoan khoái, thân
thể nhẹ nhàng. Người nữ bị chứng bế kinh (nguyệt
bảo chậm hoạt không ra được ) cũng khỏi.
Phép
Bát tích thứ năm :
ĐIỀU MẠCH (Thống huyết )
Người nữ nằm nghiêng về bên phải, co chân
phải lên vàduỗi thẳng chân trái. Người nam nằm phục
lên trên ôm lấy người nữ và liệu chiều cho dương
cụ thâm nhập vào mật cung, ra vào 54 lần. Mỗi ngày 6
lượt trong 24 ngày. Được vậy tâm mạch sẽ đều đặn,
khí huyết lưu thông ;người nữ thì khỏi chứng bị đau
âm đạo, đau dạ con.
Phép thứ năm này cùng với phép thứ tư giống
nhau, chỉ khác ở thế nằm người nữ
nghiêng về trái hay nghiêng về phải mà thôi.
Phép
Bát tích thứ sáu :
SÚC HUYẾT (Nuôi máu)
Người nam nằm ngửa trong tư thế đón chờ (hoặc
bị động). Người nữ qùy
trên người nam, hai đùi dang ra hai phía háng nam nhân
và ngồi xuống để dương cụ tự do thâm nhập vào mật
cung. Nữ nhân nhấp xuống, nhổm lên cho dương cụ vào
ra 63 lần rồi đình chỉ hẳn. Mỗi ngày thục hành liên
tục trong mười ngày.
Phép này làm cho người nam khí lực tráng kiện,
người nữ điều hòa nguyệt qúy.
7.Phép
Bát ích thứ bảy :
ÍCH DỊCH (Bổ ích các hạch nhờn, tinh khí nam,
nữ)
Trong các phép này người nữ úp sấp, hạ thể
đè lên một chiếc gối để bộ mông được nâng cao.
Khẽ hé đùi. Người nam chống tay, qùy gối nằm trên
người nữ và cho dương cụ hoạt động vào ra mật
cung 72 lần rồi tu quân. Mỗi ngày tập dượt 8 lượt
trong vòng 10 ngày liên tiếp. Trong Tố Nữ Kinh
nguyên bảnkhông nói rã phép này tập dượt mỗi
ngày mấy lượt, song xét ra phép thứ sáu phải thi hành
mỗi ngày bảy lượt và sau phép thứ 7 này, tức là
phép thứ 8, nam nữ phải tập luyện tới chín lần mỗi
ngày, thì ta đoán được phép thứ 7 này đòi hỏi
tám lần một ngày.
Nam, nữ theo đúng phép này sẽ được cường lực,
thận bộ kiên cố (bổ thận)
Phép
Bát tích thứ tám :
ĐẠO THỂ (Thông sạch thân thể )
Theo phép này người nữ nằm ngửa, hai chân quặp
về phía sau, uốn cong người lên. Người nam chống tay
nằm phủ lên người nữ, đựa dương cụ vào xuân
cung, ra vào 81 lần rồi rút lui.
Mỗi ngày thao diễn như vậy 9 lượt liên tục
trong chín ngày. Theo phép này người nữ trị đuợc
bệnh xuân cung có mùi hôi hám.
Theo phép này người nữ phải quặp chân ra sau
để uốn cong hạ thể, lại bị động chịu trận cho người
nam luyện tập nếu
không cảm thấy khoái lạc thì tất nhiên thấy đau đùi
mỏi vế vô cùng. Nhưng theo Tố Nữ Kinh, nếu không
theo đúng phương pháp mà thực hành thì không thể nào
trị được mùi ác xú cả trong bộ phận của nữ nhân
cả.
GHI
CHÚ:
Trong Phương Đông Học
từ xưa ai cũng biết rằng : nội tráng tất ngoại
cường (Bên trong - ý chỉ các tạng phủ -mà được
khỏe mạnh, thì bên ngoài sẽ kiên cố. Cho nên có rất
nhiều môn tu học cốt làm sao cho thân thể kiên khang
hầu tiến đến chổ bất tử. Các phái võ Thiếu Lâm,
Võ Đang. v. . v. . ra đời cũng vì mục đích ấy. Trong các tư thế
thượng thừa được chấp nhận có môn Bát Đoạn Cẩm
tức là một môn nội công của Thiếu Lâm phái.
Học môn này tức là thực thi những tư thế mà giữa
nguyên phần hạ thể và hai tay mà làm các động tác
mà thôi.
Nhưng trong "Bát Ích " lại có những tư thế
hoàn toàn trái nghịch, các động tác do phần hạ thể
chủ động, mà mục đích cũng là làm cho thân, tâm
được khoan khoái, cường kiên, không khác gì mục
đích của các môn phái y học hoặc võ học khác. Hơn
thế vì nghĩ rằng đa số bệnh tật cũng là do tiên
thiên -khi mới sanh ra con người đã yếu kém - hai là
tại bẩm sinh đã được trời cho mạnh khỏe sonh không
biết giữ gìn đã để cho phong sương liễm thể hay đã
vung vít quá độ mà đâm ra tật kia, chứng nọ. Cho nên
Tố Nữ Kinh chín thế và phép Bát Ích muốn lợi dụng
những sự ham muốn của người đời, khiến cho ai cũng
không phải "khổ công " mới thành mà traí lại có
thể vừa hành lạc vừa thâu lượm được kết quả
tốt.
Cửu thế và Bát Ích mang đến cho mọi người
nguồn sinh lực, sự hòa hợp hạnh phúc, sự ước
muốn diên niên trường thọ. Còn việc sửa đổi tình
trạng yếu kém, chuyên về điều trị sức khỏe và các chứng bệnh thì lại có bảy phép khác
gọi là "thất tổn " (như vậy, tổng cộng là : 9+8+7
=24 tư thế ). Sau đây là những tư thế trong thất tổn
THẤT TỔN
PHÉP
THẤT TỔN THỨ NHẤT :
TUYỆT KHÍ
Tuyệt khí là chứng bệnh
thiếu khí, mồ hôi nhiều, tim nóng, mắt hoa, nguyên
nhân do những sự miễn cưỡng (cố gắng nhiều lần)
giao hợp mà sinh ra.
Y học Trung Hoa lấy khí làm quan trọng nhất nên khí
chỉ thiếu một chút làm sự sống của con gnười đã
bị đe dọa rồi, đừng đến là đi đến chỗ tuyệt
nữa.
Để chữa trị chứng bệnh này, người nữ phải nằm
giữa để người nam nâng hai đùi lên và cho vào dương
cụ. Thế này tương tự như thế vượn leo song có điều
khác là người nữ phải chủ động, ngươì nam đừng
nhúc nhích để dương cụ nằm yên trong xuân cung. người
nữ chỉ việc chuyểng động tuỳ ý thích đến khi thấy
xuân thuỷ rạt rào thì thôi, chớ để người nam ra
theo. Mỗi ngày hãy giúp đỡ nam nhân như thế chín lượt,
liên tục trong mười ngày, tất chứng tuyệt khí sẽ
hết.
PHÉP
TỔN THẤT THỨ HAI :
DẬT TINH
Dật tinh tức là sự ham muốn quá độ, âm dương
không thuận, không mãn ý hoặc là phòng sự lúc cơm
no rượu say nên khí loạn, tổn phế tạng, gây nên sự
nóng giận bất thường. . Chứng này phải trị ngay không
thể kiên trì (chểnh mảng để lâu) được vì khí ngày
càng vọng động càng thiêu đốt, làm mắt hoa bụng trướng,
hen xuyển v. v. . . Để lâu sẽ đi đến chổ bất lực.
Hãy để nữ nhân nằm ngửa hai chân cong vòng (như
ngồi sắp bàn tròn) quặp lấy người nam. người nam
ngồi xuống đưa dương cụ vào xuân cung, nhưng chớ
đưa toàn bộ vào, đưa độ hai phần ba thôi (một tấc
rưỡi). Nữ nhân sẽ ngúng nguẩy, lắc xoay, sàn bộ
mông. Người nam giữ y thế của mình, chớ động cựa.
Chừng nào ngươì nữ thấy xuân thuỷ trán đầy thì
đình chỉ không sàn nữa, trách đừng để cho người
nam xuất tinh ra theo.
Mỗi ngày hành sự chín lần liền trong mười ngày,
chứng Dật tinh sẽ trị khỏi. Trong phép này, phải để
cho người nam nhàn dật, bớt dụng sức. Lại phải biết
ý nam nhân chớ để nam nhân thỏa mãn mà bị "tảo
tiết " (ra sớm).
PHÉP
THẤT TỔN THỨ BA :
ĐOẠT MẠCH
Mạch bị đoạt nghĩa là toàn thể tinh mạch ở
trong trạng thái lộn xộn, không còn chạy theo đúng phương
vị của chúng nữa. Kết qủa của chứng này trong thuật
phòng the là dương cụ quá cường dật khiến cho có
trường hợp bán đồ mà đã xuất hay tệ hại hơn,
khóc ngoài biên ải. Bệnh lâu thành bất lực. và
tinh khí khô kiệt. Nếu cứ cưỡng mà tiếp tục hành
sự thì Tỳ tạng thương tổn, sự tiêu hóa không còn
bình thường được nữa.
Để chữa trị chứng này, nữ nhân dùng vị thế
nằm ngửa, hai đùi cặp vào hai bên hông của nam nhân.
Nam nhân dùng hai tay đỡ sức nặng của thân mình bằng
cách chống xuống giường, thân mình chồm lên phía trên
của nàng. dương cụ từ trên đâm xuống. Chỉ có nàng
là chủ động xoay trở trong tư thế này, sàng xẩy, đong
đưa, tuyệt nhiên chàng không chủ động. Đến khi nàng
tình xuân mãn ý thì dừng lại ngay và bắt chàng rút
ra ngay. Tuy không đến tuyệt đỉnh Vu Sơn nhưng chàng sẽ
trị được căn bệnh của mình. Mỗi ngày thực tập chín
lần, trong mười ngày thì căm bệnh tự nhiên sẽ khỏi.
PHÉP
THẤT TỔN THỨ TƯ :
KHÍ Tiết
Khí tiết vì nguyên nhân ham hành lạc trong lúc mệt
mỏi, ví dụ vừa làm công việc nặng nhọc xong chưa kịp
nghỉ ngơi lấy lại sức đã vội vã nhập phòng, nên
chi tinh thần bị bì quyện (u mê không linh hoạt), mồ hôi
ra như tắm, bụng càng đầy như bị báng (cổ trướng
).
Để chữa trị chứng này, người nam nằm ngửa,
xuôi tay chân cho thư thái để nữ nhân quay đầu về
phía nam nhân, quỳ xuống, hai đùi áp sát sườn nam
nhân rồi từ hạ mông xuống mở cửa mật cung đón
dương cụ vào. Chớ cho sâu hẳn, giữ lại nữa chừng
rồi lúc lắc. Khi người nữ cảm thấy xuân thủy rạt
rào thì phải thôi ngúng nguẩy và tạm rút lui. Làm
như vậy trong mười ngày, mỗi ngày chín lần. bệnh khí
tuyết sẽ khỏi.
Thế này tương tự như thế thỏ liếm lông nhưng
khác một điều là người nam phải giữ thế yên vị,
người nữ phải nhổm mông không được đè sát. Vì
thế này nhấp nhổm nên người Trung Hoa gọi thế này
là "cúi đầu hái củ ấu" (Đảo thái liên hoa -
quay đầu lại hái sen).
PHÉP
THẤT TỔN THỨ NĂM :
CƠ QUAN HAY LÀ QUYẾT THƯƠNG
Quyết thương hay còn gọi là nghịch khí thuộc chứng
bệng về nội tạng. Bị huyết thương thì đại tiểu tiện
khó khăn, da thịt tiêu hao, gan, thận suy kém có thể đi
đến chổ dương suy, âm suy (liệt dương, liệt âm), nặng
có thể không còn đứng ngồi được. Muốn chữa bệnh
này, nam nhân phải nằm thẳng, tay chân duổi dài thoải
mái. Người nữ quay
lưng lại ngồi xuống cưỡi lên hai vế người nam. Chống
tay rồi từ từ hạ
bộ mông xuống cho dương cụ lọt vào xuân cung. Mông lưng
uốn éo tuỳ nghi đến khi tràn trề xuân thuỷ thì ngừng.
chớ để người nam vận động và ra theo. Mỗi ngày chín
lần liên tiếp trong mười ngày thì bệnh tật khỏi.
Điều nên nhớ là phép thất tổn đều có mục
đích là đem sự giao hợp chuyển thành phương pháp chữa
bệnh -nhưng bệnh luôn luôn có liên quan đến tính giao
hợp vì tham lam qúa độ hay vì nghịch lý -cho nên người
nam phải chịu thua thiệt là không bao giờ được phép
hưởng khoái lạc đến mãn túc, và người nữ cũng
phải biết tự mình rào rạt xuân tình đến cao độ mà
vẫn giữ cho nam nhân trách khỏi sự xuất tinh. Được
như vậy thì hai bênh tinh dịch sung mãn, khí huyết lưu
thông trường nhuận, sự hô hấp dễ dàng, bệnh tật
khỏi lại thêm cường tráng thân tâm.
Tố Nữ Kinh còn ghi rằng các thể vị chữa bệnh
nêu trên cần thực thi với nữ nhân trẻ trung xuân
tình dào dạt, càng xinh đẹp càng hay. Trong khi chữa bệnh
mỗi lần hành sự thì thay nữ nhân khác. Xét cho cùng
điều này ngày nay không ai làm được mà Tố Nữ
Kinh ghi ra là để cho người có phương tiện không cảm
thấy nhàm chán mà thôi. Không thể thay bạn tình mỗi
lần thì ta thay cái tâm lý nhàm chán của mình rằng
đây là phương thế chữa bệnh không khó khăn mà lại
thêm khoái cảm, mặt dù có trường hợp khoái cảm
chỉ mới nữa chừng.
PHÉP
TỔN THẤT THỨ SÁU :
BÁCH BẾ
Tố? thất thứ sáu gọi là Bách Bế tức là
các đường kinh mạch trong con người bị nghẽn tắc không
lưu thông bình thường được nữa. Nguyên nhân là
do hứng tình qúa độ, giao hợp không hạn chế số lần.
Ở nam có triệu chứng tinh khí khô cạn. Khi giao hợp
dù muốn xuất tinh cũng không được. Cổ họng khô rát,tiểu
tiện không thông, đau buốt ;người yếu, thường cảm
thấy choáng váng.
Thể vị giao hợp để trị khỏi bệnh này như sau:
- Nam nhân nằm ngữa thoải mái .
-Nữ nhân nằm sắp bên trái, hai tay chống xuống
giường để nâng đỡ thân mình. Â m hộ giữ dương
vật và chuyển động không ngừng (sàn qua sàn lại).
Nam nhân giữ nguyên tắc không xuất tinh .
Theo phương pháp này mỗi ngày thi hành bảy lần,
trong vòng mười ngày thì các chứng bệnh trên sẽ bị
triệt tiêu .
PHÉP
TỔN THẤT THỨ BẢY :
HUYẾT KHUYẾT
Tổn thất thứ bảy gọi là Huyết Khuyết nghĩa là
cạn máu, thiếu máu .Nguyên nhân vì làm việc quá độ
hay là quá mệnh mỏi (đi bộ) khi mồ hôi xuất ra quá
nhiều mà lại giao hợp ngay.giao hợp xong tình ý chưa
thỏa mãn lại tiếp tục trèo lên lần nữa ...Tinh khí
tiêu hao nên nội tạng yếu .Bệnh chứng là tinh khí rỉ
ra không ngừng (di tinh) làm cho máu huyết trong người
ra cạn,da dẻ có màu tái xám, mét chì, lổ đái đau
đớn, nước tiểu màu đỏ như có lẫn máu.
Thể vị giao hợp để trị bệnh này như sau:
-Nữ nhân nằ ngữa, đít kê trên cái ghế để
nâng âm hộ lên cao,hai đùi dang rộng, đưa háng ra rõ
ràng .
-Nam nhân qùy ở giữa hai đùi nữ nhân, đâm
dương vật vào, nữ nhân chuyển động hậu thân liên
tục nhưng khi đã thỏa mãn thì ngừng lại tức thì (để
trách kích thích thêm làm cho nam nhân xuất tinh ).
-Nam nhân vẫn theo nguyên tắc không xuất tinh .Thi
hành mỗi ngày chín lần,trong vòng mười ngày sẽ trị
được các chứng bệnh trên .
GHI CHÚ:
Ta thấy rõ ràng tổn thứ tư, tổn thứ năm, tổn
thứ sáu đều là những điều làm hại cơ thể do sự
giao hợp quá độ và không tiết chế sự xuất tinh mà
gây ra. Trị các tổn thất này đều cần là các thể
vị giao hợp cũa nữ nhân ở trên tạo thoải mái cho
nam nhân, không cần phí nhiều sức lực .Chỉ có tổn
thứ bảy là cần vị trí của nam nhân ở trên mà thôi
.
Tất cả các thể vị để trừ bảy tổn là để
cho nữ nhân nắm vai trò chủ động, chủ động việc
tạo khoái lạc và chủ động không để nam nhân xuất
tinh .Các vị trí này thay đổi khác nhau là để thay đổi
vị thế kích thích kéo dài thời gian giao hợp ....
Y học Trung Quốc cho rằng con mắt và lá gan là
hai cơ quan cảm ứng đối với nhau, liên hệ nhau mật
thiết, cho nên thường thường bệnh gan thì mắt hoa
choáng váng .
Người Trung Hoa cho rằng mắt là cửa sổ (song bộ)
của nội tạng, phản ánh tình trạng của các cơ quan .Mắt
cũng là cửa sổ của tính ái, trạng thái tình dục.
Điều xác định này rất phù hợp với y giới cận
đại .
Người Trung Hoa cho rằng tròng đen của mắt mà
thật đen là biểu hiện của sự buông thả của nhiệt
tình. Cặp mắt mà tròng đen có viền ánh lên màu anh
hoa (đen pha nâu) thì biếu lộ tính khí vượng thịnh, dồi
dào, nội tạng mạnh mẽ, kiện khang, không bị tổn hại,
sinh hoạt tình dục rất bình thường .
Nếu tròng trắng mắt có màu anh hoa thì đó là
biểu hiện của nhiệt tình sung mãng, mạch máu vận hành
điều hòa, sức khỏe tốt. Đối với loại nữ nhân
này âm hộ luôn luôn có ôn độ thích hợp (âm ấm),
luôn luô n sẵn sàng cho cuộc mây mưa vì sự ham muốn
về tính dục rất mạnh mẽ .
Nữ nhân mà mắt nháy mãi không thôi tức là
biểu thị tính dục bị nguy kịch không còn thích thú nữa.
Mắt gan liên quan nhau nên gan bị bệnh thì tâm bất an,
mắt nháy chớp .
Muốn cho đời sống tình dục mạnh phải để cho
nội tạng mạnh mẽ,cường tráng, không bị bệnh .Chương
này đưa ra nguyên tắc "nghiêng trút mà không đổ"(dốc
nhi bất tiết), nam nhân phải giữ đó làm mối chánh
.Nguyên tắc này lại dưa trên thể vị chủ động của
nữ nhân lúc giao hợp, không phải là thể vị để làm
tăng khoái cảm giao hợp mà là để chữa các bệnh
trạng sanh ra do giao hợp quá nhiều.
Ngoài cách giao hợp các thuốc bổ cũng rất cần thiết
.Nếu tinh thần bị giảm yếu thì phải thường dùng bồ
câu để cho tinh khí trở lại mạnh mẽ.Đời đường
Võ Tắt Thiên đã bảy mươi tuổi mà tinh lực vẫn còn
mạnh vì bà ngâm rượu bồ câu gọi là "Võ Hậu Tửu"
loại rươụ này trong sách "Võ hậu ngoại truyện"
có nhắc tới .
"Rượu Võ Hậu" gồm nguyên liệu đã được
bào chế như sau:
-Rượu trắng dùng để đốt nóng một con chim bồ
câu sau khi đã bỏ lông, chặt bỏ đầu và vứt bỏ
tất cả bộ đồ lòng .
- 50 grm Hà Thủ Ô.
- 10 grm lộc nhung (gạc nai nón)
- 100 grm nhân sâm triều tiên.
Tất cả bỏ vào một cái tô, đổ thêm rượu
trắng vào. Đốt lửa ở dưới tô nấu trong vòng năm
mươi phút. Xong để nguội. Đem phơi nắng vài ba giờ
để lấy hơi sương và không khí. Đoạn cho thêm rượu
vào và nấu lần nữa trong khoảng ba mươi phút,lại để
nguội và đem phơi nắng một lần nữa. Lần này khoảng
hai mươi phút thôi. tất cả được đem ngâm vô rượu,
thêm một chút mật ong. Niêm phong thật kín để trong
chỗ mát (lấy hơi ấm).Ba tháng sau rượu đã có hiệu
lực, dùng đưọc. mỗi ngày uống một ly nhỏ thì chẳng
những vấn đề sinh lý mạnh mẽ mà các chứng bệnh
do sinh lý quá độ cũng không thể phát sinh. Rượu Võ
Hậu có tác dụng thức dùng đúng thời tiết theo phương
pháp luyện cho thân thể khang kiện của tiên gia : mùa
xuân thì dùng ý dĩ nhân, mùa hạ thì dùng đậu xanh,
mùa thu thì ăn hạt sen, mùa đông thì ăn đậu phụng.
Mỗi thứ ăn ba tháng trong năm.
Gần đây, ý dĩ nhân được dùng để phòng ngừa
ung thư như trong y học mới.Ý dĩ nhân còn là thứ dược
liệu dùng để bổ gan, lợi tiểu,giúp cho bao tử tiêu
hóa mạnh mẽ.Ý dĩ nhân còn có công dụng ở các
bệnh khác. Chẳng hạn bệnh mồ hôi chân,bệnh đường
tiểu,bệnh bạch đản.Dối với các bệnh này bào chế
như sau :
- Ý Dĩ Nhân một lượng
- 4 grm
cam thảo
- Đổ vô hai chén nước, nấu trong nữa
giờ còn lại nữa
chén.
Buổi sáng trước khi ăn sáng nữa giờ uống một
lần. Dùng xác thuốc còn lại cho thêm nước vào nấu
lại để uống nước nhì nữa giờ trước khi đi ngủ
(ngày uống hai lần)
Ngày xưa người ta hay dùng hồ đào vì hồ đào
là loại rất bổ cho việc tính giao. Hồ đào còn có tính
chất làm cho ngủ ngon(trị bệnh mất ngủ) và chữa
được vài trường hợp suy yếu thần kinh.
Ông Thái Nhất Phan nói rằng muốn cho dương vật
cường tráng thì ăn hồ đào cả vỏ. Lần đầu ăn
một trái, cách năm
ngày tăng thêm một trái nữ a, cứ như vậy cho tới
khi ăn mỗi ngày hai mươi trái thì mỗi ngày thì hiệu
qủa trông thấy : thằng nhỏ cứng, nóng lúc nào cũng
sẵn sàng lâm trận.
BA MƯƠI VỊ
THẾ LÂM TRẬN
(Theo Đạo gia Động Huyền Tử tiên
sinh)
Chương này là chương luận lý về vị thế tính
giao do ông Động Huyền Tử tiên sinh là người theo trường
phái Đạo Gia, tên thật là Trương Đĩnh.
Ba mươi vị thế là những vị thế rất cơ bản
trong sinh hoạt phòng trung, so với cửu pháp đã nói
ở các chương trên là hơi lhác đôi chút nhưng đại
để thì giống nhau. Chỉ
khác mục đích Cửu Pháp có mục đích dưỡng sinh,
Tam Thập Pháp (ba mươi thế vị)
trái lại lấy sự khoái cảm làm cơ bản.
Động Huyền Tử tiên sinh nói :
"Giao tiếp đích tư thế, đại ước bất xuất
tam thập chủng, kỳ trung hữu tiền hậu khuất trập, thượng
hạ, phủ ngưỡng, đẳng đẳng. ... tuy nhiên đại thể
tương đồng, khước dã kỷ cương la nhất thiết phương
pháp, tơ hào một hữu di lậu đích."
Nghĩa là : "Tư thế giao tìng không ngoài ba chục
kiểu, trong đó co, thẳng, nằm trên, nằm dưới,đằng
trước, đằng sau,đại đồng nhưng tiểu dị.Đem ba mươi
kiểu này làm cơ bản thì bao gồm các kiểu khác, không
còn kiểu nào khác hơn".
Tự
trù mâu:
Quấn quít, nam nũ quyện lấy nhau.
Thân
khiển quyển:
Nam, nũ thân mật nắm tay nhau vuốt ve.
Bạo
tự ngư:
Khi người nữ hứng tình, âm hộ cương lên, cứng
gồ giống như cá cong mình nhảy vượt lên trên không
trung.
Kỳ
lân giác:
Như trên, nghĩa là âm hộ nữ nhân cương cứng,
cong mu lên như hình sừng con kỳ lân.
Bốn trạng thái trên là bốn hình thức sửa soạn
trước cuộc giao tình không ai mà không có. Các hình
thức sau đây mới là vị thế giao hợp.
Toản
mặc cẩm:
Nữ nhân nằm ngữa,hai tay choàng qua cổ nam nhân,
kẹp hai chân lên lưng nam nhân. Cả tứ chi kéo nam nhân
về phía mình. Trong khi đó nam nhân ôm choàng lấy cổ
nũ nhân, thân mình choàng xuống giữa hai đùi nàng.Hai
cơ quan sinh dục đối mặt. Đâm vào nhau.
Long
uyển chuyển:
Nữ nhân nằmngửa, co hai đùi, giơ thẳng lên về
phía trước. Nam nhân qùy ở giữa đùi nữ nhân.
Hai tay nắm phía sau của hai đầu gối đẩy về phiá trước.
Có thể đẩy tới khi đùi nữ nhân đụng được nhũ
hoa, ở vị trí này âm hộ trình bày tư thế sẵn sàng
nghinh đón dương vật.
Ngư
tỉ mục:
Hai phái nam nữ nằm ngang. Nữ nhân gác một chân
lên mình nam nhân. Miệng và miệng kề nhau. Nút lưỡi.Nam
nhân khi hứng tình đưa một tay kéo đùi nữ nhân giơ
hơi cao lên trong khi đó hai chân mình vẫn thẳng hàng.
Dương vật đâm xuyên vào.
Yến
đồng tâm:
Nữ nhân nằm ngữa, lưng sát giường, hai chân
hơi dạng ra và đưa lên trên
không. Nam nhân nằm úp lên trên bụng nữ nhân
hai tay choàng qua sau cổ người bạn mình. Nữ nhân cũng vậy ôm lưng nam nhân, kéo
mạnh về lòng mình. Dương cụ càng đâm vào càng sâu
càng tốt.
Phỉ
thuý giao:
Nữ nhân nằm ngửa, lưng sát giường, hai chân
hơi dạng ra và đưa lên trên không. Hai đùi cong lại.
Nam nhân ngồi phía dưới, hai đùi dang ra kềm hai đùi
của nữ nhân. Hai tay ôm chặt eo ếch của bạn. Cử chỉ
này vừa tạo vị thế tiện lợi cho dương cụ đâm thẳng
vào thâm cung vừa kích thích vùng âm hạch của nữ
nhân để gợi hứng tình.
Uyên
ương hợp:
Nữ nhân nằm nghiêng. Nam nhân nam phía sau, hai đùi
ở giữa hai đùi nữ. Đâm từ phía sau tới chêng
chếch.
Không
phiên diệp:
Nam nhân nằm ngữa, banh hai chân ra. Nữ nhân ngồi
lên mình nam chổ hậu bộ, mặt đối mặt, hai tay đè đầu
gối mình để giữ thăng bằng. Ngồi lên cọc.
Bối
phi cưu :
Nam nhân nằm ngữa, banh hai chân ra. Nữ nhân ngồi
lên vị thế như trên nhưng đưa lưng về phía mặt của
nam nhân (ngược lại vị thế trên ), đầu hơi cúi xuống
như nhìn âm hộ mình, để âm hộ căng ra hơn.
A?
cái công:
Nữ nhân nằm ngữa hai chân giơ lên không và
sát vào nhau, duỗi song song. Nam nhân ngồi hay đứng
ở phía dưới hậu thân của nữ, hai tay ôm eo nam. Dâm
thẳng vào.
Lâm
đàn trúc:
Nam nữ đứng thẳng ôm nhau như hai cây tre trong
một bụi tre. Miệng hôn lên miệng, phía dưới dương
cụ đâm thẳng vào âm hộ.
Loan
song vũ:
Hoặc nam nằm sấp, hoặc nữ nằm úp lên nam, vị
thế là hai bên chồng lên nhau và đối mặt. Hai cơ
quan đối diện nghinh tiếp nhau.
Phượng
tương xu:
Nếu nữ nhân có thân thể to lớn mà giao hợp
với nam nhân mảnh dẻ thì dùng thế nam nhân nằm trên.
Vị thế và hình dạng này giống như phượng hoàng ôm
con vào lòng cho con bú.
Hải
âu đực:
Như đàn chim xòe cách, nam nhân đứng dưới giường
nắm hai chân nữ nhân đang nằm trên giường mà banh
ra. Đâm vào.
Dã
mã đề:
Như chân con ngựa hoang, hai chân của nữ nhân gác
lên hai vai nam nhân, một chân được chính tay nàng kéo
co lên để tạo thế chênh chếch của âm hộ.
Bạch
hổ thắng:
Nữ nhân nằm ngữa, hai chân dang thẳng ra. Nam nhân
quỳ ở chổ hậu thể nữ nhân giữa hai chân nữ.
Hai tay câu cổ nữ nhân. Đâm thẳng vào.
Huyền
đàn bộ:
GHI
CHÚ:
Cuộc sống bận rộn kinh tế, đời sống bon chen
chật vật, vợ chồng đã hiểu nhau nhiều thì cuộc giao
hợp mất đi nhiều tính hiếu kỳ và hứng thú. Nếu
thương yêu nhau mà giao hợp thì giao hợp cho có, theo
bản năng, thì chỉ là theo lẽ " hứng thì làm ", phát
tiết dục tình chứ không hưởng thụ những khoái cảm.
Bởi vậy nam nhân phải chủ động trong việc thay
đổi tư thế giao hợp. Hai đàng phối hợp với nhau để
hưởng hứng thú cuộc tình tránh sự nhàm chán của
việc xả xú báp, chơi cho có gọi là, trả bài trả nợ.
Thay đổi tư thế giao hợp, theo quan niệm giáo dục
sinh lý mới là điều rất tốt ích lợi về cả hai mặt
tâm lý và sinh lý. hai bên nam nữ đều cảm thấy cuộc
tình như mới mẻ, không nhàn chán. Nhàm chán là con
đường đổ vỡ hạnh phúc gia đình chớ không phải
chỉ mất hứng trong cuộc giao hợp mà thôi.
(Hết
Phần 4 ... Xin xem tiếp Phần
5)
Xin các
bạn vui lòng nhấp chuột vào các bản quảng cáo để
ủng hộ Cõi Thiên Thai! (Vietnamese
Stories)
Last Update: Nov 15, 2000
This story has been read (Since Oct 3, 2000):
Counter 
|