Chiến tranh luôn mang đến đau thương và bất hạnh. Và dù luôn
biết điều ấy, thế nhưng nhân loại vẫn luôn ôm mộng hủy diệt
nhau. Tất cả cũng chỉ từ tham vọng vô song. Tham vọng muốn
chiếm đoạt và sở hữu.
Lịch sử nhân loại, kể từ thời ông Adam “một mình một cõi”,
khoảng một trăm ngàn năm, so với độ dài 4 triệu năm của trái
đất và 4 tỉ năm của vũ trụ thì thật là phù phiếm. Trong suốt
khoảng thời gian nhỏ bé ấy, loài người như một lữ khách, đến
rồi đi, một cách bí ẩn. Từng thế hệ loài người, từ ăn lông ở
lỗ đến hiện đại ngày nay, như một con phù du mang kiếp thiêu
thân, lao mình vào những cuộc trường chinh liên tu bất tận,
chỉ để “tặng” nhau khổ đau và chết chóc. Cuộc sống thì hữu
hạn, lòng tham lại vô hạn. Lòng tham bạo tàn này như là một
“bản năng” của con người. Nó rút ngắn thời gian, niềm vui,
hạnh phúc và thịnh vượng trong cuộc sống ngắn ngủi của từng
số phận mà nó ghé thăm, thông qua cái gọi là “chiến tranh”.
Và thế kỷ 20 được “vinh danh” là “thế kỷ chiến tranh”. Hai
cuộc chiến tranh thế giới đã dìm loài người vào kiệt quệ và
hỗn mang. Hàng triệu người đã không còn cơ hội để thấy lại
bình minh. Tại Việt Nam, vài chục năm sau, cũng vậy. Cuộc
chiến ý thức hệ tàn khốc nhất được hai thế lực Tự Do- Cộng
Sản “thí điểm” tại dải đất bé nhỏ nằm sát biển đông, mang
tên Việt Nam. Dân tộc này, vốn cũng đã gồng mình gượng sống
trong hơn 1000 năm Bắc thuộc, chưa kịp khui champagne ăn
mừng tiễn chân người lính Pháp quốc cuối cùng rời khỏi Đông
Dương thì lại đã “xắn tay áo, lên lai quần” chuẩn bị “xáp lá
cà” với chính người anh em một nhà với mình.
“Chiến tranh Việt Nam”, một trong những cuộc chiến tàn bạo
nhất thế kỷ 20 đã mang đến cho dân tộc ta những gì ? điều đó
đến bây giờ đã quá rõ, rõ như trắng và đen.
Thưa qúy vị, dù qúy vị đang tạm dung thân nơi đất khách quê
người hay đang sinh sống tại cố quốc, chúng ta vẫn luôn nhớ
mình là người Việt Nam và xin hãy tự hào về điều đó. Có lẽ
không ít bạn trẻ thuộc thế hệ sinh ra sau này tại hải ngoại
và ngay tại Việt Nam, chúng ta cũng biết mù mờ về lịch sử
dân tộc. Cuộc sống hiện đại và tất bật đã không làm chúng ta
bận tâm đến “lịch sử đã qua”. Thế nhưng, xin nhớ cho rằng,
nếu không có lịch sử và những biến cố của nó, chắc gì các
bạn đã có thể “ung dung tự tại” với cuộc sống hiện nay của
mình. Có những điều nên quên và ngược lại, cũng lắm điều cần
nhớ. Vì nó sẽ nhắc cho các bạn nguồn cội của mình, nhất là
những người trưởng thành tại đất khách quê người. “THẢM KỊCH”
là một bộ truyện dựa trên những sự kiện có thật và nếu đã
từng đọc qua nó, các bạn sẽ được sống lại với thời gian, với
lịch sử mà ở đó, tôi cũng như cha mẹ, ông bà các bạn đã là
những chứng nhân, của bi kịch và đau khổ ...
Mùa xuân năm 1975, vận mệnh miền Nam Việt Nam hay còn gọi là
Việt Nam Cộng Hòa bị đe dọa hơn bao giờ hết. Sau khi Hiệp
định Paris được ký kết, quân đội Hoa Kỳ, đồng minh quan
trọng nhất của VNCH, dần triệt thoái và cắt giảm viện trợ
quân sự. Đó là năm 1973. Cái bắt tay mang màu sắc chính trị
giữa Hoa Kỳ và Trung Cộng đẩy hai mươi triệu đồng bào miền
Nam vào cảnh bức tử. Quân đội Bắc Việt được “hai ông lớn”
Trung-Xô tăng cường tiếp tế nhằm “dứt điểm” VNCH. Trong khi
đó, chúng ta lâm vào thế “tự lực tự cường”. Cán cân quân sự
chệch hẳn. Vậy nhưng, nếu không có lòng ái quốc, lòng quả
cảm và hy sinh của các chiến binh VNCH thì miền Nam đã không
“thở” được đến 2 năm sau. Thế nhưng cuối cùng, Tổ quốc cũng
đến giờ “hấp hối”…
* CUỘC NỘI CHIẾN TƯƠNG TÀN
Ngày 10/3/1975, Việt Cộng bất ngờ tấn công Ban Mê Thuột. Sau
khi trung đoàn 53 Sư đoàn 23 Bộ binh thất thủ, hai trung
đoàn còn lại là 44 và 45 của sư đoàn này tiến hành cuộc phản
công ứng cứu. Cuộc chiến diễn ra quyết liệt nhưng do bất lợi
về điều kiện hành quân ( đường 14 bị VC chia cắt buộc lực
lượng tiếp cứu phải không vận ) và quân số ( chỉ có sư đoàn
23 Bộ Binh phải chống tới 4 sư đoàn VC ) nên nhiệm vụ này
thất bại.
Ngày 18/3, Ban Mê Thuộc hoàn toàn thất thủ. Hai cứ điểm khác
là Pleiku và Kon Tum trong tình trạng bị đe dọa cao. Do vậy,
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ra lệnh bỏ Tây Nguyên, rút về cố
thủ phòng tuyến duyên hải miền Trung. Cuộc di tản diễn ra
trong hỗn loạn, đẫm máu vàtang thương vì bị sư đoàn 320 VC
đón đầu chặn đánh ngay thị xã Cheo Reo, Phú Bổn, Nha Trang.
Hàng ngàn người phơi thây bởi đạn pháo Cộng sản, biến con
đường 14 này thành “Quốc lộ kinh hoàng” khét tiếng lịch sử.
Tiếng gào khóc, rên xiết chất đầy trên những xác người không
còn nguyên dạng, biến đám đông khổng lồ thành một hố chôn
tập thể kinh hoàng và dã man nhất. Đây là tội ác rõ ràng và
cụ thể nhất của “bộ đội cụ Hồ”, nằm trong series “tội trọng”
qua những vụ chôn sống người dân ở Huế, thảm sát, chặt đầu,
bắt bớ hơn 2 triệu người bị “tố” là tá điền, địa chủ trong
thời kỳ kinh hoàng của “chủ nghĩa đấu tố” tại miền Bắc và
qua hàng ngàn vụ thủ tiêu các thành viên đảng phái đối lập
trong phong trào Việt Minh của những thập niên trước đó…
Nói chung, việc thất thủ Ban Mê Thuột đã đặt cứ điểm quan
trọng nhất miền Trung là Đà Nẵng vào thế bị cô lập và chia
cắt.
Xin nói rõ thêm đôi chút cùng qúy vị, thời điểm này, tuy
viện trợ Hoa Kỳ đã cắt giảm hầu như cạn kiệt nhưng tinh thần
Quân Lực VNCH vẫn còn khá cao nhưng… chính quyết định sai
lầm, rút bỏ Cao nguyên Trung Phần,dồn quân về các tỉnh miền
Trung đã mang tính bước ngoặt, xoay chuyển cục diện chiến
trường. Chính sai lầm chiến thuật này đã phải trả giá quá
đắt. Tin Ban Mê Thuột nhanh chóng thất thủ và cuộc di tản bị
dìm trong biển máu như một vết dầu loang, làm hoang mang
tinh thần ba quân chiến sĩ. Trách nhiệm này thuộc về Tổng
thống Nguyễn Văn Thiệu và Bộ Tổng Tham Mưu, mặc dù đã có
nhiều ý kiến phản đối từ một số tướng lãnh nhưng cuộc triệt
thoái đẫm máu này vẫn được tiến hành.
Ngày 21/3 Quân đoàn 2 Bắc Việt ( gồm các sư đoàn 304, 324,
325 ) ào ạt tấn công Cố đô Huế.
Trung tướng Ngô Quang Trưởng, tư lệnh Quân đoàn 1 lại được
lệnh bỏ Huế, di tản về thành lập vành đai tử thủ Đà Nẵng, cứ
điểm quan trọng bậc nhất miền Trung. Con đường duy nhất giao
thông hai vùng là đèo Hải Vân bị VC dồn lực đánh phá khiến
đạo quân di tản phải tìm đường đào thoát ngoài cửa biển
Thuận An. Không khí vô cùng căng thẳng khi liên tục bị bom
đạn địch quân pháo kích. Đội quân hàng trăm ngàn người vừa
đánh vừa chạy, tạo ra một thảm cảnh kinh hoàng và hoảng loạn
chưa từng thấy.
Ngày 26/3, Huế thất thủ.
Ngay sau đó, quân CS thừa cơ xông lên đánh chiếm Đà Nẵng.
Một số ít binh sĩ được tàu Hải quân vận chuyển được từ cửa
Thuận An vào, hợp cùng các sư đoàn tại đây chống trả quyết
liệt bước tiến kẻ thù. Trận giao tranh quyết liệt nhưng cuối
cùng, ngày 29/3 Đà Nẵng cùng chung số phận với người anh em
Huế.
Đến thời điểm này, thế giới đang nín thở theo dõi diễn biến
chiến cuộc Việt Nam. Việc toàn bộ cao nguyên Trung phần và
các tỉnh miền Trung lần lượt thất thủ trong thời gian quá
nhanh đã đặt toàn bộ quân nhân và nhân dân Sài Gòn cộng các
tỉnh đồng bằng Sông Cửu Long vào thế ngồi trên lửa. Và hơi
nóng của nó thì đã nướng cháy hết lớp quần bảo vệ bên ngoài.
Sài Gòn như một anh lực sĩ chợt đột qụy. Nam phụ lão ấu, hết
thảy đều choáng váng. Thế nhưng, “vị quốc vong thân”, bị dồn
vào cửa tử, những lực lượng còn lại của quân đội VNCH quyết
một phen sống mái với giặc. Một phòng tuyến
mới, trải dài từ Phan Rang qua Xuân Lộc đến Tây Ninh được
nhanh chóng dựng lên, mà trong đó, thị xã Xuân Lộc là cứ
điểm trọng yếu nhất, cách Sài Gòn 60 km.
Nếu phòng tuyến huyết tử này bị bẻ gãy thì Cộng quân sẽ theo
quốc lộ 1 và 20 đánh chiếm Biên Hòa và Sài Gòn.
Khi ấy, Đại Tá Mạnh, tham mưu trưởng sư đoàn Biệt Động Quân,
đang được biệt cách về vùng 1 tham gia hoạch định chiến lược
phòng thủ Đà Nẵng, được lệnh kéo về Xuân Lộc, tỉnh Long
Khánh, hợp cùng thiếu tướng Lê Minh Đảo, lập vành đai phía
đông bảo vệ thủ đô Sài Gòn. Bấy giờ là đầu tháng 4/ 1975.
Tình hình chiến sự vô cùng ác liệt. Địch quân mở hết công
suất nhằm “phỏng giái” miền Nam. Khi ấy tại phòng tuyến Xuân
Lộc, sư đoàn 18 Bộ Binh ( tư lệnh thiếu tướng Lê Minh Đảo )
và Lữ đoàn 1 Nhảy Dù ( Trung tá Nguyễn Văn Đỉnh ) cùng 9
tiểu đoàn Bảo An, 1 tiểu đoàn BĐQ, 5 Trung đội Pháo đã lập
được một phòng tuyến kiên cố, trải dài từ Túc Trưng, Dầu
Giây qua thị xã Xuân Lộc đến ngã 3 Tân Phong.
Đạo quân tăng phái gồm 3 tiểu đoàn tinh nhuệ nhất của Biệt
Động Quân ( chỉ huy trưởng đại tá Lê Văn Mạnh ), Lữ đoàn 3
Thiết giáp ( chỉ huy trưởng trung tá Nguyễn Bá Châu ), nằm
dưới quyền tư lệnh Đại tá Mạnh, dồn dập tiến về Long Khánh.
Đoàn xe tăng cả trăm chiếc rầm rầm tiến vào phòng tuyến Xuân
Lộc như thổi một luồng sinh khí mới cho anh em quân nhân
đang tử thủ. Mặt trận Xuân Lộc bước vào giai đoạn quyết định.
Về phần bà Lê và Gia Thư, họ ngày đêm ngong móng tin tức
chiến sự. Miền nam lúc này vô cùng nóng bỏng. Nhà nhà bát
nháo, người người rối ren, tin tức ngoài chiến trường đổ về
từng giờ một, mang theo sự hy vọng bình an của bao gia đình
quân nhân cán chính. Tình hình nguy ngập nơi vành đai thủ đô
khiến trường học bữa đực bữa cái mà cũng chẳng ai còn lòng
dạ nào để học hành. Hai mẹ con Gia Thư mỗi chiều lên nhà thờ
Huyện Sỹ, qùy bên hang đá Đức Mẹ nguyện cầu. Bà Lê như dự
báo điềm chẳng lành, lòng dạ bất an. Còn Gia Thư, tâm hồn
nàng giờ này chỉ còn canh cánh nỗi an nguy của miền Nam và
của thân phụ, “chú Nông” mặc nhiên “đi toong”. Thế cũng phải,
“chú Nông” sau khi thành “Nông công công” đã cao chạy xa
bay, không còn thấy tăm hơi bởi đơn giản, y nghĩ rằng mọi
chuyện đã bại lộ, lỡ dại lén phén ở lại Sài Gòn, Mạnh “man”
mà tìm được thì chắc y chỉ còn nước về với “giàng”. Nhưng…
số phận thật trớ trêu, vẫn mơn man con bài định mệnh của
“cặp bài trùng” “Nông-Thư”. Một thành tích vượt bậc của các
y sĩ VNCH trong những ngày cuối cùng của đất nước đã được
nhiều báo chí đăng tải nhưng bị át đi trước những tin tức
nóng hổi từ chiến trường, đó là thành công trong việc nối
lại dương vật cho một người. Đó là ai thì qúy vị cũng đoán
được rồi. Thế là Nông tặc ba chân bốn cẳng “a lê hấp”, y đợi
ngày “tái giá trả món nợ xưa” cùng cô chủ nhỏ vì với sự lọc
lõi của mình, y thừa biết miền Nam chẳng còn tồn tại được
lâu và khi ấy, nếu “có duyên tao ngộ” thì “cá ăn kiến, kiến
ăn cá” ( ??!! ).
Qùy dưới chân Đức Mẹ nhân ái, hai mẹ con bà Lê cảm thấy thư
thái nhẹ nhõm khá nhiều. Và tất nhiên, họ chẳng còn hơi đâu
để ý coi “chú Nông quản gia” xuất viện hay chưa. Nhìn ánh
mắt thắm thiết của Gia Thư khi nguyện cầu mới thấy nàng thật
trong sáng và thanh cao đến nhường nào, bao nhiêu “bụi bẩn
thế gian” mà Nông tặc gieo rắc vào cái tuổi đôi mươi dường
như đã theo gió bay hết đi…
Ngày 9/4/1975, trận tử chiến bắt đầu. Quân đoàn 4 VC ( gồm 3
trung đoàn 6, 7 và 341 ) định đánh thẳng vào ngả ba Dầu Dây
đến núi Chứa Chan nhằm khoét vào thị xã Xuân Lộc nhưng chúng
không ngờ hỏa lực phản công của “ngụy” lại mạnh đến thế. Sau
đó, thấy thế trận bất lợi, Cộng quân chuyển sang đánh vào
Gia Kiệm, Túc Trưng nhưng chúng không biết là Mạnh “man”
đang phục tại đây. Kết quả là chúng phải đạp lên đầu nhau
tháo chạy trước sức mạnh hủy diệt của tiểu đoàn 82 Biệt Động
Quân. Sư đoàn 6 VC chọc từ hướng Nam đánh vào ấp Hưng Lộc
đến đèo Mẹ Bồng Con nhằm chia cắt quốc lộ 1 nhưng bị 2 tiểu
đoàn 346 ( thiếu tá Nguyễn Ngọc Bi ) và 365 Bảo An ( thiếu
tá Cao Văn Từ ) và 3 đại đội biệt lập ( trung úy Đỗ Xá ) đập
cho tan nát. Chiến đoàn 52 Thiết Giáp nện cho trung đoàn 266
VC “xì khói” tại chi khu Kiên Tân. Cuối cùng, Quân lực Việt
Nam Cộng Hoà đã đẩy được Cộng quân ra xa thị xã Xuân Lộc 17
km, loại khỏi cuộc chiến các trung đoàn 165, 209 & 270 của
địch. Thiếu tướng Nguyễn Ngọc Toàn của địch “về với Bác”. Về
phần mình, trung tá Đỗ Nguyên Đô, lữ đoàn trưởng lữ đoàn 23
Thiết Giáp và thiếu tá Nguyễn Văn Nhạ, tiểu đoàn trưởng tiểu
đoàn 31 BĐQø hy sinh.
Ngày 12/4 địch mở cuộc tấn công dữ dội lần thứ hai vào thẳng
thị xã Xuân Lộc nhưng trước hết phải vượt qua cửa ải chi khu
Tân Phong. Lần tấn công này, địch dùng tất cả sức mạnh chúng
có để hy vọng “bứng rễ” được bức tường thành đầu tiên cách
Xuân Lộc 4km này. Lực lượng tử chiến tại đây gồm 3 tiểu đoàn
Biệt Động Quân kèm 2 tiểu đoàn Dù được phối trí hình cánh
cung, dưới quyền chỉ huy của một người mà chúng vừa đụng độ
cách đây ít hôm. Khi đó thì chưa biết mặt mũi địch thủ ra
sao đã bị băm vằm còn bây giờ khi mà“danh chính ngôn thuận
thì VC đã “quấn trong đài!”. Đúng vậy, bao chiến trận vang
danh quân sử, từ hai đợt tổng công kích Tết mậu thân và
tháng 5/ 1968, tại thủ đô Sài Gòn, Chợ Lớn và Gia Định đến
Mùa hè Đỏ Lửa 1972, An Lộc tử thủ, và đặc biệt là trận Bình
Long, Đại tá Mạnh với hình ảnh đứng trên xe jeep giữa làn
đạn thù, nã đại liên vào địch đã trở thành bất tử và nỗi
kinh hoàng cho chúng. Chỉ cần nghe tên Mạnh “man” là mấy tên
VC từ tướng tá xuống thằng binh nhì đều “mặt xanh như tàu lá,
đánh rấm chẳng ra hơi”. Đây là câu truyền tụng rất phổ biến
mà hầu như người lính Biệt Động Quân Mũ Nâu nào cũng biết.
Thật ra, tuy là Tham mưu trưởng nhưng có thể nói, sư đoàn
BĐQ ( nổi danh với tên gọi “Những con cọp rừng”, chuyên trị
những vùng đầm lầy rừng rậm ) hầu như do Đại tá Mạnh gom hết,
thiếu tướng Đỗ Kế Giai chỉ “có danh mà không có phận” dù là
tư lệnh binh chủng này. Nếu không có những vụ “scandal” “tử
hình” tại chỗ những anh lính “con ông cháu cha” bất tuân
thượng lệnh và những lần “phanh thây” quân giặc thì có lẽ
đại tá Mạnh đã lên đến Trung tướng, tư lệnh vùng 2 chiến
thuật thay trung tướng Đỗ Cao Trí tử nạn. ( sau được truy
phong Đại tướng )
Từ tờ mờ sáng, tiếng súng gầm thét bầu trời. Những đợt tấn
công đầu tiên của CS bị dìm trong biển máu. Xét cho cùng,
“biển người” luôn là “hạ sách” đối với binh pháp nhưng luôn
là “thượng sách” của những đoàn quân CS. Từ Hồng quân Liên
Xô đến Trung cộng, Bắc Triều Tiên đến Bắc Việt đều cùng chơi
chiêu này, vì đối với họ, mạng lính lác là cỏ rác, miễn sao
đạt được chiến tích là thành công. Ấy cũng là cách dùng
người của CS. Chúng sẵn sàng chà đạp lên nhau để thăng quan
tiến chức. Các bạn chỉ cần so sánh những nước tự do như Mỹ
hay VNCH trước đây, họ qúy và bảo vệ sinh mạng binh lính
nước mình như thế nào thì hiểu ngay bản chất tàn bạo của CS.
Đợt tiến công tiếp theo, chúng chọc được vành đai phía bắc
do đại úy Lê Trung Nghĩa chỉ huy và từ đó đánh thẳng vào bộ
chỉ huy trung tâm. Đầu não bị đe dọa, lập tức tiểu đoàn 8 Dù
do thiếu tá Thân Nguyên Thức chỉ huy kéo đến giải vây. Hai
bên giao chiến quyết liệt, giành nhau từng tấc đất, bụi pháo
bay mịt mù. Trên không, oanh tạc cơ gầm rú. Dưới đất, đại
bác tác xạ liên hồi. Như một lỗ kim bị tràn nước, hai bên
cùng lúc kéo nhau đổ quân vào. Một bên đánh, một bên giải
vây. VC mở cánh quân thứ hai ( gồm 2 sư đoàn 6 & 7 ) theo
đường số 20 bọc quốc lộ đánh vào bộ chỉ huy hậu phương. Cánh
quân này có tên đại tá Nguyễn Văn Sặc, chính ủy quân khu 7
“đi sâu đi sát chỉ đạo”. Lúc ấy là 9h50 sáng. Cánh quân này
của VC đánh bật được trung đoàn 43, đang “ngon trớn” tập
kích sở chỉ huy sư đoàn 18 của tướng Lê Minh Đảo thì bị tiểu
đoàn 9 Dù ( trung tá Trần Hữu Phú ), Trung đoàn 5 Thiết Giáp
( Trung tá Lưu Phùng Thiệt ) và 2 tiểu đoàn Bảo An 331 ( đại
úy Hoàng Xuân Bằng ) và 364 ( thiếu tá La Pháo ) chặn đánh
ngay ngã ba thị xã, bắt sống tên Sặc. Trở về vành đai phòng
thủ của Đại tá Mạnh, tình hình thật sự lâm nguy khi chênh
lệch lực lượng hai bên quá lớn. Mạn quân phía tả của Trung
tá Tạ Minh Huy, chỉ huy trưởng chiến đoàn 52 Thiết Giáp bị
thiệt hại khá nặng, Trung tá Huy tử thương. Sau khi tiêu
diệt hai trung đoàn 302 và 78 VC, đại tá Mạnh đích thân dẫn
tiểu đoàn 31, 45 BĐQ cùng tiểu đoàn 3 Dù xung kích giải vây
cho mạn sườn tây tại ấp Bảo Toàn và núi Thị , của trung tá
Huy. Hai bên dần nhau tơi tả. Cuối cùng, chỉ còn cách nhau
một giao thông hào, “tướng” Mạnh ra lệnh “xáp lá cà”. Đây là
ngón đòn sở trường của BĐQ. Vậy là dao lê cắm lên M16, lựu
đạn rút chốt, các chiến binh BĐQ biến thành những con rắn
luồn qua phía địch. Cũng nên biết rằng, đại tá Mạnh luôn
tiên phong nơi tiền tuyến cùng anh em, không bao giờ “an
phận” nơi hậu phương nên được binh lính rất qúy mến. Lần này
cũng thế, Mạnh “man” cầm đầu toán quân “lết” qua bên kia
“nắn gân” địch. Đạn pháo nổ ầm trời, vì thế “xáp lá cà” coi
như chấp nhận có thể “bom ta giết quân mình”. Với những
chiến binh tinh nhuệ được đào tạo bài bản trên quân trường
thì những tên giặc CS amateur không phải là đối thủ. Do đó,
trận chiến tại khu vực này nhanh chóng kết thúc. Mạn sườn
tây được vá lại kịp thời. Khi mọi người đang đếm xác giặc
thì bỗng nhiên đại tá Mạnh lảo đảo và khịu xuống. Thuộc cấp
vội đỡ ông lên thì thấy trên áo giáp bị xé một mảnh lớn, máu
tuôn ra ướt đẫm. Đại tá Mạnh mặt mày đã bắt đầu tái đi…
11h45, Đại tá Mạnh được các quân y đưa về trạm xá cấp cứu.
Ông bị một mảnh bom xé nát ngực trái, xuyên qua phổi. Tin
Tham mưu trưởng BĐQ bị trọng thương làm xôn xao anh em binh
lính…
Tại ngôi biệt thự trên đường Tú Xương, mẹ con bà Lê vẫn đang
ngong ngóng tin chiến sự nơi chiến tuyến Xuân Lộc. Họ cảm
thấy vô cùng bất an, đứng ngồi chẳng yên như linh tính báo
trước điều gì …
Sau này, tôi được biết, trên đường cấp cứu, Đại tá Mạnh vẫn
cố gắng ngẩng đầu lên nhìn ba quân chiến sĩ bu xung quanh,
miệng vẫn nở nụ cười trong tiếng thì thào với thiếu tá Bùi
Văn Cẩm, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 Dù “Dặn anh em… cố
gắng hết sức… giữ trọng điểm này… đừng để mất…nghen Cẩm !”.
Thật cảm động, thưa qúy vị, trong giây phút hấp hối này,
những lời nói cuối cùng của Đại tá Mạnh không phải dành cho
vợ cho con mà ông vẫn luôn canh cánh nỗi lo của người chiến
binh đối với sự an nguy đất nước. Và… không còn kịp nữa rồi.
Bàn tay nắm chặt thiếu tá Cẩm dần buông lơi. Đại tá Mạnh ra
đi như ước nguyện của ông khi còn sống “tướng tá hay binh
nhất binh nhì cũng vậy thôi, nếu hy sinh moa cũng muốn giống
như họ, như một người chiến binh hy sinh cho Tổ quốc”.
Giờ phút ấy, cuộc chiến tạm ngưng, khói lửa tạm lắng, hàng
ngàn chiến binh đứng yên lặng lẽ, vây quanh xác ông. Đất
trời như nhạt nhòa, không gian như lắng đọng, chỉ còn những
tiếng gió thổi vun vút, hất những tấm bạt phủ lên xác ông
bay bần bật. Đó đây những tiếng nấc nhè nhẹ, một vài chiến
binh gục xuống, ôm mặt thương tiếc chỉ huy của mình. Số khác
vòng tay ôm nhau an ủi. Họ coi ông như một người anh, luôn
đồng cam cộng khổ với anh em trong mọi tình huống. Tuyệt
nhiên, chỉ có tiếng gió, tiếng nấc giữa một bình địa mênh
mông, hoang tàn và đổ nát. Không gian lặng lẽ đến đáng sợ,
ngay giữa lòng chiến trường… thêm một người tướng tài của
Quân Lực VNCH đã ra đi…
… thêm một người chồng, người cha đã ra đi…trong cuộc chiến
tàn khốc này…
“một ngàn năm nô lệ giặc Tàu, một trăm năm đô hộ giặc Tây,
hai mươi năm nội chiến từng ngày, gia tài của Mẹ để lại cho
con, gia tài của Mẹ là nước Việt buồn… gia tài của Mẹ một
rừng xương khô, gia tài của Mẹ một núi đầy mồ…”
16h50’ . Trời mưa nhẹ, lâm râm. Một chiếc xe jeep dừng lại
trước tư gia Đại tá Mạnh. Trung tá Nguyễn Ngọc Tiên, trưởng
ban 3 bộ Tổng Tham Mưu đích thân báo tin buồn cho bà quả phụ.
Hãy nghe lời tường thuật của trung úy Nguyễn Khoa Năm, tùy
viên trung tá Tiên ( đã mất năm 1979 trong trại lao động khổ
sai của VC ) “hôm ấy, sau khi nghe tin dữ, bà Lê xây xẩm mặt
mày, gục ngay xuống ghế, còn Gia Thư nhìn chằm chằm vào
trung tá như hoài nghi. Miệng cô mấp máy định hỏi điều gì
nhưng không thốt ra được, cuối cùng cô choáng váng gục xuống
đất, khóc lên nức nở kêu gào “ba ơi”. Trông thật tội nghiệp
!”
Mây đen bao phủ tổ quốc Việt Nam, dân tộc Việt Nam, con dân
Việt Nam và kể từ hôm nay, có thêm hai mẹ con bà Đại tá…
Sau ngày tang tóc ấy, phòng tuyến Xuân Lộc, Long Khánh như
rắn mất đầu nhưng vẫn công nhận một điều, các chiến sĩ VNCH
vẫn tiếp tục chiến đấu ngoan cường khiến CS bất lực, đành đi
đường vòng sang đánh Biên Hòa.
Ngày 21/4, Quân Lực VNCH rút lui có trật tự khỏi Xuân Lộc
sang bên sông Đồng Nai cố thủ.
Sau đó, Không quân VNCH đã thả hai trái bom CBU-55 gây một
cơn “địa chấn” ngoài sức tưởng tượng tại vị trí ngã ba Dầu
Giây. Việc sử dụng hai trái bom này gây ngạc nhiên lớn cho
giới quân sự thế giới. Theo tài liệu, 2 sư đoàn VC tại đây (
tương đương 20.000 người ) đã “phùng mang trợn mắt” trong
vòng 5 phút oxy bị đốt cháy hoàn toàn trước khi “đoàn tụ với
Bác”. Một món “quà tặng ý nghĩa” của quân dân miền Nam đối
với lũ cướp nước.
Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, phó tổng thống Trần Văn
Hương lên thay nhưng chỉ được một tuần. Ngày 28/ 4, Đại
tướng “cơ hội” Dương Văn Minh lên thay.
Và bây giờ, Sài Gòn đứng bên vực thẳm. Nhà nhà nhốn nháo,
người người hoang mang. Không khí hoảng sợ chụp phũ lên từng
gia đình, lên từng giấc ngủ chập chờn của mỗi người dân. Các
cánh quân dần tan rã, dập tắt sự sống héo hắt của Miền Nam,
của 20 triệu đồng bào… Ôi điêu linh bắt đầu gieo bao giông
tố lên quê hương tôi !
Sáng sớm ngày 30/ 4, trời se lạnh. Gia Thư chợt thức giấc
nửa đêm. Nàng lại tiếp tục nhòa lệ trong sự tiếc thương và
nhung nhớ về người cha yêu thương. Đại tá Mạnh thật sự không
có nhiều thời gian chăm sóc con gái nhưng về tình thương,
ông dành trọn vẹn cho nàng. Bởi, như qúy vị còn nhớ, ông đã
một lần hụt hẫng trong đêm động phòng với vợ và dù không bị
ám ảnh bởi chuyện này, song điều đó cũng đã gây nên một vết
thẹo trong tim ông. Do đó, đại tá Mạnh dồn hết tình thương
cho cô con gái rượu, âu cũng là điều chính đáng. Nàng thổn
thức với những kỷ niệm đẹp thời niên thiếu. Hễ mỗi khi cha
đi hành quân về là lại bế bé Thư lên vai đùa giỡn và mua cho
nàng biết bao món quà. Trong ký ức ngắn ngủi ấy, chẳng có
một lời la mắng nào, họa chăng là vài ba tiếng “thầy đời”
cho khỏi mang tiếng chìu con, chẳng bù ngoài chiến trận, Đại
tá Mạnh “ho” một phát là khối kẻ “quên thở”. Đôi khi, tình
cờ bắt gặp cha đang lặng lẽ đứng trong vườn hút thuốc, ánh
mắt ưu tư muộn phiền, nàng không khỏi thấy trào dâng trong
lòng niềm yêu thương vô hạn. Đại tá Mạnh luôn ít nói, sống
nhiều về nội tâm, người ta chỉ hiểu và đánh giá về ông qua
hành động nhưng mỗi lời nói của ông đều rất đáng để nghe.
Gia Thư cũng giống bố, nhưng vì mới lớn lại sống trong nhà
khép kín nên dù thông minh nhưng khi gặp cú shock Nông tặc
cũng không tránh khỏi nhún nhường, sợ hãi. “Chú Nông” bắt
được điểm yếu này nên mặc sức dày vò thân xác nàng, thậm chí
có lần y còn đe dọa “ếm bùa” Đại tá Mạnh. Trên thực tế, mỗi
lần có Mạnh “man” trong nhà thì Nông tặc lại biến thành một
con mèo ngoan ngoãn vì hắn biết, vị chủ nhân khi đã phật
lòng “lên cơn” thì hắn chỉ còn “mềm xương”, huống chi là
chuyện “ếm” với “iếc”.
Giờ đây, ngôi nhà bỗng trở nên tang tóc và trống trải lạ
thường. Hai người giúp việc, nữ về quê, nam nằm viện, đều
“một đi không trở lại” dù hai trường hợp ngược nhau hoàn
toàn. Bóng dáng to lớn, dềnh dàng cùng tiếng cười sang sảng
của cha nàng chỉ còn là những dấu ấn, hằn sâu trong từng kỷ
vật, từng tấc đất của ngôi nhà này. Tôi thật thương cảm cho
Gia Thư, tuổi vừa lớn lại chịu quá nhiều bất hạnh truân
chuyên. Cha mất, người yêu tật nguyền, bản thân bị biến
thành “nô lệ tình dục”, thật còn khổ đau nào hơn. Ai bảo
rằng người giàu thì không khóc ?!
Vừa lần bước xuống cầu thang, nàng đã thấy bà Lê ngồi tần
ngần nơi phòng khách. Đêm qua, bà đã ngủ ngoài này. Gương
mặt bà luật sư tàn tạ rõ ràng. Bà bị dày vò bởi tội lỗi của
mình. Nào là chuyện “hàng second-hand”, chuyện “lập nhóm
thổi kèn”, chuyện bỏ bê con cái, bà thấy mình thật tội lỗi,
lẽ ra người nằm trong tấm hình treo trên bàn thờ kia là bà
mới đáng. Gia Thư đến bên cạnh, ôm chầm lấy mẹ. Đã từ lâu
rồi, nàng mới ôm lại mẹ và có cảm giác thật ý nghĩa như lúc
này. Gương mặt hai mẹ con khá giống nhau, từ môi mắt, tóc
tai, chỉ khác về sự tươi trẻ và lão hóa. Cũng đôi môi mũm
mĩm ấy, đều đã từng ngậm lấy dương vật đàn ông, một vì
thích, một vì bị thích. Hoàn cảnh xô đẩy họ vào cảnh “mẹ góa
con côi”.
Hôm nay thật lạ, mới sáng sớm mà đã nghe tiếng pháo nổ đây
đó. Có lẽ vài nhóm VC lẻ tẻ phá bỉnh dân Sài Gòn. Nhưng chỉ
ít phút sau, khi trời sáng hẳn, họ mới nghe tiếng xôn xao
ngoài đường. Gia Thư ra quan sát thì thấy những nhà kế bên,
họ đều bồng bế nhau lên xe chạy vội. Bà Lê chợt dự báo điềm
xấu, vội “911” cho bạn thân của chồng, trung tướng Vĩnh Lộc.
“bà và cháu nên di tản ngay đi, Việt cộng đang ở ngoại
thành, chúng ta không còn cầm cự được lâu đâu”. “mẹ con tôi
biết đi đâu bây giờ hả trung tướng ?”…
7h30’ ngày 30/4/1975, một chiếc xe jeep của bộ Tổng Tham mưu
chạy đến rước mẹ con bà Lê.
Hai người vẫn còn bàng hoàng trước diễn biến bất ngờ này.
Chiếc xe chạy ào ào trên đường. Kế bên, hai sĩ quan Dù súng
ống đầy mình đang cố trấn tĩnh bà Lê “viện binh đang từ vùng
4 đổ về, chúng ta sẽ tổng phản công lại chúng, thưa bà !”.
Họ nói vậy nhưng sắc mặt thì thật căng thẳng. Ngoài đường
phố, dân chúng bắt đầu nhốn nháo. Họ kéo ra đường dò la tin
tức, số khác bắt đầu chất của cải gia tài lên xe di tản.
Lính tráng đổ ra đầy đường, dựng barem, bao cát làm ụ chiến
đấu. Xe chính phủ hụ còi inh ỏi, cảnh báo mọi người nên bình
tĩnh. Trên trời, trực thăng quần thảo, thi thoảng lại bắn
rocket ầm ầm. Lần đầu tiên, chiến sự lan tới tận trung tâm
thủ đô Sài Gòn. Bà Lê hiểu, như thế là hết. Chiếc xe chạy
đến ngã ba Ông Tạ thì ngắc ngứ vì kẹt xe. Nhìn vẻ hớt hải
của mọi người, Gia Thư chợt thấy lòng quặn đau khi nghĩ về
trung úy Sơn. Liệu anh đã biết tình thế chưa và ai sẽ giúp
anh đây ? Đường phố trật tự bỗng trở nên xô bồ bát nháo.
Trong đám đông đang chen lấn, có vài tiếng la lớn “việt cộng
vô tới cầu Sài Gòn rồi”, làm mọi người đồng loạt hét lên
thất thanh, cố hết sức dẫm đạp nhau mà chạy. Hai viên sĩ
quan sau khi hội ý nhau, nói với bà Lê “thưa bà, hiện bộ
Tổng Tham mưu đang do Lữ đoàn 81 Biệt cách đảm nhận, các
tướng tá di tản hết rồi. Với tình thế này, chúng tôi định
chạy sang tòa Đại sứ Mỹ, bà có muốn theo không ?”
Bà Lê gật đầu lia lịa “chúng tôi còn chổ nào đâu mà đi !”.
Nói vậy bởi hai tuần trước, ông L. , thân phụ bà Lê đã di
tản sang Pháp nhưng bà không theo vì đang còn đau đớn trước
sự hy sinh của chồng. Bây giờ chẳng còn đường nào mà chạy !
Vừa rẻ sang dinh Độc Lập, chiếc xe jeep lập tức bị chặn lại
bởi lực lượng an ninh tại đây. Sau khi thuyết phục không
thành công, chiếc xe rẻ về Cảng Sài Gòn. Quay đầu nhìn lại
đám đông bu đầy quanh tòa đại sứ Mỹ, Gia Thư cảm thấy thật
xót xa cho người dân Việt, đến giờ cuối cùng cũng phải cậy
nhờ đồng minh đã đẩy họ vào thảm cảnh này. Trung tâm Sài Gòn
như ong vỡ tổ, già trẻ lớn bé, mặt mày hoang mang, ngơ ngác
chẳng biết đi đâu về đâu, chỉ biết là không thể sống chung
với Cộng sản. Một cái chợ người khổng lồ như một cây nấm,
mọc giữa lòng thủ đô. Ai nấy cũng đổ về trung tâm. Tiếng la
hét, khóc lóc, súng nổ tạo ra một bi kịch lịch sử. Đó đây,
những cái bánh xe bị đốt cháy càng làm không khí thêm nặng
nề. Đường phố náo loạn. Tiếng loa vang ầm trời “đồng bào
bình tĩnh ! đồng bào bình tĩnh” càng làm người dân thêm
hoảng sợ. Hầu như ai cũng rối trí và quờ quạng trên con
đường sinh tử này. Một vài người mặc quân phục kê súng vào
đầu quẫn tiết, vừa làm mọi người cảm phục nhưng cũng khiến
họ thêm quẫn trí, đầu óc như mê muội đi. Bà Lê siết chặt tay
Gia Thư, nói nhỏ “Phú dâng hết cho Đức Mẹ đi con !”. Nàng
nhìn bà gật đầu. “Đức Mẹ ơi, xin cho đồng bào con thoát cơn
lửa khói, thập tử nhất sinh này, Mẹ dấu yêu ơi !”. Gia Thư
thật đáng mến, đến giây phút này, nàng chỉ cầu nguyện cho
đồng bào mà chẳng đoái hoài gì đến mình. Nhìn phía đường
chân trời, những cột khói bốc cao, bít kín một vùng. Đó là
trận chiến cuối cùng đang diễn ra, tại Bộ Tổng tham mưu Quân
Lực VNCH do anh em liên đoàn 81 Biệt Cách Dù ( dưới sự chỉ
huy của thiếu tá Phạm Châu Tài, chỉ huy trưởng 3 Chiến Thuật
) đem thân mình tử thủ. Giờ khắc nguy biến đã đến. Chiếc xe
jeep buộc dừng lại trước đám đông nghẹt cứng Quân cảng Sài
Gòn. Hai sĩ quan dùng hết sức dìu mẹ con bà Lê vào hàng rào
cảnh vệ. Giữa đám đông chen lấn, tiếng hò hét như xé nát bầu
trời. Mất bao sức lực, họ cũng đến được điểm cuối cùng. Trên
trời, trực thăng quần thảo càng thúc hối những nhịp tim căng
ra đập thình thịch. Giờ này, chẳng ai còn để ý đến ai nên dù
cặp ngực bị “ép sinh tố” nhưng Gia Thư vẫn chẳng màng. Bên
trong hàng rào, lực lượng Quân cảnh VN và Mỹ cũng như lực
lượng Lôi Hổ, vũ trang đầy mình, ra sức đẩy lui những làn
sóng người dồn dập “tịnh tiến”. Hai sĩ quan tốt bụng đi cùng
mẹ con bà Lê đã lọt được vào bên trong nhưng họ không thể
nào bảo lãnh bà quả phụ ngài Đại tá vào. Viên đại úy cảnh vệ
vẫn khước từ lời thỉnh cẩu của họ, dù biết đây là vợ con Đại
tá Mạnh nhưng tình thế bây giờ, “quốc bất vị thân”. Đám đông
càng xô đẩy ào ạt, biến hai mẹ con bà Lê thành “cá mòi”.
Chắc có lẽ thấy “bốn trái vú sữa, hai già hai chín” đang bị
“ép plastic”, đại úy nhà ta “động lòng thương xót” nên “bỏ
nhỏ” : “để tôi vào trình Trung tá Tư Lệnh đã”. Hai mẹ con bà
Lê khấp khởi mừng thầm. Ngoài khơi, Đệ Thất hạm đội của Mỹ
đang đón chờ bất kỳ con thuyền VN tị nạn nào. Chỉ cần một
bước chân, vượt qua lớp hàng rào này, Thiên đàng Tự Do sẽ mở
rộng vòng tay chào đón vào tương lai sáng lạng. Từng phút
trôi qua dài như thế kỷ, viên đại úy đó vẫn “mất tích”. Đang
khắc khoải chờ mong thì một làn sóng người từ sau ập đến,
bất ngờ và mạnh mẽ như sóng thần, biến lớp hàng rào kiên cố
kia chỉ còn là món đồ chơi trẻ con. Gia Thư và bà Lê đứng
ngay “đầu sóng ngọn gió” nên bị “biển cả” hất văng vào
trong. Hàng tràng đạn chỉ thiên cảnh cáo nhưng chỉ mang tính
“minh họa” cho cơn khát khao tự do của đồng bào. Hàng vạn
người chen lấn nhau vào khu vực “cách ly” để xuống tàu. Lớp
người đầu tiên nhanh chóng chiếm được vị trí “ngon lành”
trên những con tàu trống trải. Gia Thư thuộc số người đó
nhưng chao ôi, “được con mất mẹ”. Trong lúc xô đẩy, bà Lê
cũng đã “mất tăm dấu vết”. Nước mắt nghẹn ngào, nàng hớt hải
tìm kiếm nhưng giữa biển người hoảng loạn này, việc này chỉ
như “mò kim đáy biển”.
Và thưa các bạn, điều trớ trêu và tréo ngheo này đã thật sự
xảy ra. Hành động dứt khoát của Gia Thư làm chúng ta đều cảm
phục. Nàng từ bỏ vị trí “trong mơ” này, làm một cuộc “đào
tẩu ngoạn mục” như một chiếc lá nhỏ cố gắng ngược dòng nước
mênh mông. “Sức cùng lực kiệt”, Gia Thư cũng ngoắc được một
chiếc xích lô về nhà. Như ngồi trên than, đứng trên lửa,
lòng dạ cồn cào về số phận “mẹ yêu”. Trên đường phố, không
khí vô cùng khủng khiếp, người người chạy xuôi chạy ngược,
tiếng la hét, súng nổ ầm ĩ đan xen tiếng loa rí réo đã thêu
dệt nên bức tranh cuối cùng đặc tả nhất của Sài Gòn trong
cơn hấp hối. Xe dừng trước nhà, Gia Thư đã thấy ngàn phần lo
lắng vì cửa chốt then gài. “trời ơi, mẹ con đâu rồi Chúa ơi
?!”. Tim nàng như ngừng đập, đầu óc quay cuồng. Lúc ấy, bác
xích lô già nói với nàng “cô à, qua thấy cô nên lên xe để
qua chạy về bến cảng lại, lỡ bà cụ còn ngoài đó thì sao ?”.
Lúc này, Gia Thư mới chú ý đến người đạp xích lô, râu tóc
bạc trắng, chiếc áo sờn cũ trên thân người gầy gò của ông.
“dạ, con tìm ngoài đó hết nước rồi mà đâu có được ông ơi !”.
Giọng ông lão, tuy quê mùa nhưng nàng thấy thật ấm lòng “qua
nghĩ cô nên đi ngay bây giờ, tụi Việt cộng nó mà vào Sài Gòn
là bức hại hết đồng bào mình. Tụi nó ác lắm cô ơi, vợ con
qua chỉ là nông dân vô tội mà tụi nó còn không tha, huống gì
gia đình lính tráng mình hả cô ?”. Nghe xong câu này, tim
nàng nhói đau. Mãi sống trong sung sướng, có bao giờ nàng
tiếp xúc với những người dân lao động này đâu nhưng chỉ với
lần đầu tiên này, nàng thật cảm động trước lòng tốt của ông
cụ. “Vậy sao ông không di tản đi ?”. Ông lão nở nụ cười hiền
lành phúc hậu “qua chỉ còn cái mạng già này, sống được bao
lăm nữa mà chen chúc vô kia di tản hả cô ? qua cũng muốn
chóng mắt lên xem cái chế độ mới tàn ác như thế nào nhưng
những thanh niên như cô thì nên đi ngay đi, nấn ná sợ không
kịp đâu cô à !”. Gia Thư thấy thương quá những đồng bào chất
phác của mình, họ có tội tình gì đâu nhưng hỡi ôi, sự tàn
nhẫn của chiến tranh đã cướp đi của họ hạnh phúc đơn sơ của
kiếp người. Cô muốn ôm chầm lấy ông lão, cô thương ông quá,
tiền xe cô quên chưa trả thế mà ông vẫn cố thuyết phục cô
quay lại bến tàu. Cảm xúc dâng lên mãnh liệt, Gia Thư bật
khóc tức tưởi như một đứa trẻ làm ông lão giật mình.
“ấy…cô”, thế rồi ông lão cúi gầm mặt, vén tay áo sờn cũ tả
tơi đưa lên mặt, chắc để chậm vội những giọt nước mắt mừng
tủi trên gương mặt khô cằn, ông e dè bước đến vuốt đầu Gia
Thư. Nàng ôm chầm lấy ông, vỡ òa trong cảm xúc như một đứa
trẻ ôm lấy ông mình. Thật cảm động ! …
Hình ảnh đó khắc họa nên tính cách nhân văn của tâm hồn
người Việt. Trong giờ phút lịch sử ấy, Gia Thư đã học được
bài học vỡ lòng về tình đồng bào, với một ông lão thuộc một
giai cấp khác, hoàn toàn xa lạ. Ông cụ ấy, chắc đã mất từ
rất lâu nhưng khi viết những dòng này, tôi cũng không khỏi
bồi hồi xúc động, nguyện cầu cuộc sống ấm no sung túc cho
thân quyến ông, nếu còn, cũng như cho đồng bào ta đang còn
lây lất trong ngục tù CS…
• THỜI ĐẠI QỦY DỮ
11h30 ngày 30/ 4/ 1975, Đại tướng Dương Văn Minh, Tổng thống
VNCH lên đài phát thanh Sài Gòn ra lệnh đầu hàng…
Bài ca tang thương cho dân tộc chính thức bắt đầu…
Tôi vẫn nhớ như in giây phút ấy, tôi lúc ấy là trung úy Tâm
Lý Chiến, đang cùng anh em châm lửa hỏa thiêu những tài liệu
mật. Nghe tiếng gọi buông súng đầu hàng của hèn tướng Dương
Văn Minh, tim tôi như rụng vỡ. Anh em ngơ ngác nhìn nhau,
sững sờ và im lặng. Có người bật khóc. Có người căm giận,
gằn từng tiếng “thằng… hèn !” ( chắc ám chỉ Dương Văn Minh
). Không gian nặng nề, ai cũng như hóa đá. Trung tá Qúy,
trưởng ban 2, tập họp anh em binh sĩ, độ khoảng 30 người.
Giọng Bắc ấm áp của trung tá, nay thật trầm buồn “tổng thống
đã ra lệnh đầu hàng, giao nộp chính quyền, tôi với tư cách
sĩ quan cao nhất ở đây, thay mặt chỉ huy trưởng, truyền đạt
mệnh lệnh đau lòng này cho anh em”. Chúng tôi lặng lẽ nhìn
ông, không ai buồn thốt ra lời nào. “thôi anh em, cuộc chiến
đã đến giây phút này, chúng ta nên chấp nhận. Bao năm bên
nhau, giờ phút này, tôi hiểu thật đau lòng. Quốc gia đã
không còn... anh em hãy về với gia đình…”. Nói xong, trung
tá bật khóc. Chúng tôi không cầm được nước mắt, ai cũng sụt
sùi. Lúc ấy, đại uý Hoàng Minh Đăng, phó ban 3, đứng thẳng
hô lớn “binh sĩ… Nghiêm ! Chào trung tá… Chào !”. Chúng tôi
như lò xo, đứng bật dậy, thực hiện quân lệnh răm rắp ( trung
tá Qúy sau này đã hy sinh trong trại khổ sai Hoàng Liên Sơn,
Yên Bái, còn đại úy Đăng đã mất vì ung thư phổi năm 1995 tại
quê nhà ).
Thế đấy, cuộc chiến Vệ Quốc bao gian nguy và anh dũng nhưng
cuối cùng, đã kết thúc quá chóng vánh ngoài sức tưởng tượng.
Chỉ trong vòng chưa đầy 2 tháng, khi tiếng súng đầu tiên của
quân xâm lược vang lên ( ngày 10/ 3 ) đến khi Sài Gòn thất
thủ, 1 triệu quân nhân Quân Lực VNCH đã tan rã trong tức
tưởi, ai oán, đổ sông đổ biển công sức trên 20 năm cuộc
chiến bảo vệ Tổ quốc của đồng đội, trong đó, bao người đã
nhuộm máu từng tấc đất quê hương. Ôi, 20 năm và 2 tháng…
Tôi lang thang trên đường phố Sài Gòn, nhìn quang cảnh bát
nháo xung quanh, lòng dạ rũ rượi. Đồng bào tôi mặt mày hớt
hải, ngơ ngác như vừa thoát khỏi cơn mê. Ai cũng nhìn nhau,
chẳng nói lời nào. Thật đau quá ! Gia đình tôi đã di tản
hết, tôi không bao giờ hối hận vì mình đã không nghe họ, ở
lại đến giờ cuối cùng của cuộc chiến. Vài ba người lướt qua
nói với tôi “anh cởi quân phục ra đi, tụi nó mà thấy là bắn
anh đó !”. Tiếng nói nghe như tiếng âm vang vọng về từ nơi
xa xôi nào đó, tôi vẫn lững thững bước đi, bên mình vẫn đeo
khẩu Colt 45. Lúc ấy, nếu có chết, tôi cũng chẳng màng. Như
bao đồng đội, như bao đồng bào, tôi lết đi, thững thờ, nỗi
đau quá lớn đã làm tôi vô cảm. Đi và đi, dù không biết đích
đến…
Tổ quốc ơi, ta đã không còn !
. . . .
Sau này, bao người đã trút hết tội lỗi lên đầu tổng thống
Nguyễn Văn Thiệu và Đại tướng Cao Văn Viên, tổng tham mưu
trưởng quân đội, về sai lầm lịch sử của cuộc triệt thoái Tây
Nguyên nhưng đối với tôi, tất cả điều đó là chưa đủ. Tôi
cũng than trách họ và hơn hết, oán giận những cấp chỉ huy mà
tôi từng tôn kính, đã bỏ trốn trước họng súng kẻ thù, bỏ mặc
ba quân trơ trọi. Lịch sử đã đặt cho Quân Lực VNCH một cái
tên thật chính xác “Đội quân Bi Tráng”. Bao người thầm ước,
nếu vị tướng nào cũng như Nguyễn Khoa Nam, Phạm Văn Phú, Lê
Nguyên Vĩ, Trần Văn Hai, Lê Văn Hưng và Đại Tá Lê Văn Mạnh
cũng như bao tử sĩ dũng cảm vô danh khác thì bao triệu người
miền Nam đã không chết thảm trên biển cả và chết quằn quại
ngay trong lòng dân tộc. Cuộc sống phù hoa với tiền bạc viện
trợ phũ phê đã biến một số các vị tướng của ta thành những
“hèn nhân vĩ đại” ngay khi tiếng súng chưa lan tới thủ đô.
Tôi đang nói tới các Tướng tá, chỉ huy trưởng các đơn vị
quân đội đã vội vàng di tản trước ngày 30 đen, bỏ rơi thuộc
cấp của họ một cách tàn nhẫn. Nhưng cũng có biết bao tướng
tá đã ở lại và oằn mình trong các trại tù khổ sai thời Trung
cổ của giặc Cộng. Tất cả đều là lịch sử, mang một chân lý
vĩnh cửu, chân lý oai hùng của quân dân cán chính miền Nam
đã chiến đấu can đảm đến giọt máu cuối cùng nhưng ở giờ phút
cuối, họ đành buông tay trước thời cuộc đảo điên, trước các
tướng lãnh chủ chốt đã bỏ mặc họ ra đi.
Cuộc sống trong chế độ mới như một tấm màn sắt khổng lồ
thường thấy ở các nước XHCN, buông xuống chụp lên đầu nhân
dân miền Nam, sau những ngày đầu gây ảo giác “đoàn kết, hàn
gắn dân tộc”. Sự lương lẹo và nham hiểm luôn là bản chất của
Cộng sản. Việt Nam trở thành một nhà tù kinh khiếp, nhốt
chặt chính nhân dân mình. Những ai ngây thơ, tin vào giáo
điều mị dân của Cộng sản đều sáng mắt, giật đầu le lưỡi khi
va chạm thực tế cùng Đảng. Sự ác nghiệt của chế độ mới đẩy
20 triệu nhân dân miền Nam, vốn sống sung túc, lâm vào cảnh
dở sống dở chết. Mọi người, già trẻ lớn bé, đều biến thành
những bộ xương di động. Bao nhiêu lương thực của vùng đồng
bằng Nam bộ, đều được chính quyền “chuyển giao” ra Bắc để
“bù lỗ” cho “các đồng chí” vốn từ lâu cũng chỉ còn da bọc
xương và phần khác, là phí tổn “trả nợ” cho anh em XHCN Xô &
Tàu.
Những nông dân miền Nam làm ra hạt gạo cũng chỉ còn biết mơ
đến chính sản phẩm của mình. Thế là chính sách “Somali hóa”
của Đảng đã “thành công rực rỡ”.
Bộ máy tuyên truyền khổng lồ của Đảng, ngày đêm nhồi nhét
những luận điệu bịp bợm, xảo trá, gạt trên lừa dưới nhằm
chia rẻ và che mắt nhân dân về tội ác nhãn tiền của chúng.
Và hơn thế, củng cố quyền lực độc tôn trong một chế độ cực
trị thời trung cổ.
Sự bạo ngược, phi nhân của cái đảng cướp Cộng sản ác ôn này
đã đẩy hàng vạn gia đình lâm cảnh “chồng mất nhà tan”. Chính
sách của Đảng quá thâm độc “miệng nam mô, lòng một bồ dao
găm”. Hàng trăm ngàn cựu quân nhân VNCH phải trả giá đắt cho
“cái tội” bảo vệ Tổ quốc của mình. Các trại tù khổ sai được
núp dưới mỹ từ “trại cải tạo” để che mắt quốc tế, trong đó
sinh mạng con người còn thua con chó, mọc lên từ Bắc tới
Nam. Chúng không chỉ đọa đày thể xác mà còn quắt quéo tinh
thần “tù binh” đến mức tàn khốc nhất. Chồng xa vợ, xa con
đẩy họ vào con đường khổ hạnh của sự tra tấn tinh thần khủng
khiếp nhất. Họ trở thành những tù nhân không hề có án, tù
nhân của sự trả thù tàn độc và tiểu nhân nhất, của những
“đồng chí” cùng dân tộc trong những trại khổ sai cùng cốc mà
ở đó, năm tháng trở nên vô nghĩa. Và để thực hiện những bước
tiếp theo trong chính sách nham hiểm này, CS đã phơi bày bộ
mặt ác ôn mọi rợ của mình đến tận cùng. Chúng đẩy hàng trăm
vạn gia đình lên những vùng đất “ma chê qủy hờn” để làm
“kinh tế mới”, qua đó thực hiện hành vi “công hữu hóa”, thực
chất là cướp nhà cửa, tài sản của những người bị đẩy đi.
Chính sách quá bất nhẫn, thể hiện bản chất gian xảo, hiểm
độc của CS, trả giá bằng sinh mạng của hàng trăm ngàn người.
Tất nhiên, “cái xác khô quéo của Bác” và các đồng chí lãnh
đạo chẳng quan tâm tới điều đó, cốt sao chúng vẫn nhởn nhơ
vui thú trên núi tài sản khổng lồ chất chứa khổ đau của đồng
bào miền Nam. Trách sao cho đến bây giờ, qua thế kỷ 21 rồi
mà mối thù Nam-Bắc vẫn chất chồng như núi Thái Sơn !
Tầng tầng lớp lớp nam phụ lão ấu bị dồn về nông thôn, nhất
là các vùng khỉ ho cò gáy. Họ chôn vùi thân xác trong kiếp
“khai hoang”, không có ngày về. Trong khi đó, “các đồng chí
đồng rận” lũ lượt kéo nhau từ Bắc vào Nam để “tư hữu hóa”
nhà cửa của họ. Thời điểm ấy, không khí khủng bố lan tràn
khắp mọi nẻo đường. Chỉ cần có một tên attenne “báo cáo với
cán bộ” điều nào đấy, dù là hoang tưởng, chỉ vậy thôi mà cả
chục người biến thành nạn nhân, thường trú vô hạn tại nhà
đá. Ôi chế độ XHCN siêu việt của ta ngoài việc đưa nhân dân
về thời tiền sử còn thực hiện chính sách ngu dân, đần độn
hóa mọi người để dễ bề cai trị. Bác sỹ, kỹ sư, nói chung là
giới trí thức, tất thảy buộc về quê cầm cuốc làm ruộng,
những tên cán bộ dốt đặc cán mai lên làm “giáo sư”. Cái chế
độ mới này thật hợm hĩnh và nực cười, dù là nụ cười “méo
xệch”. Trong vòng hai thập kỷ, với quyết tâm đưa nhân dân
“tiến lên XHCN”, “các bác lãnh đạo” đã biến miền Nam Việt
Nam vốn từ một xã hội thịnh trị, bỗng chốc trở thành mảnh
đất của khô cằn, than khóc và lạc hậu. Nhà nhà ta thán,
người người oán than trước sự tàn bạo phi nhân tính của CS.
Những người từng mê muội cả tin chỉ còn biết đấm ngực than
trời. Hàng triệu người liều mình ra đi và nửa triệu người bỏ
mình nơi biển khơi. Ôi vì đâu nên nỗi nếu miền Nam không mất
và CS đừng quá bạo tàn với chính đồng bào mình ?! Tội ác tày
trời này của chúng, trời không dung, đất không tha, bị người
đời muôn kiếp nguyền rủa…
* SỐNG CÙNG QỦY ĐỎ
Tiếp tục câu chuyện về gia đình cố Đại tá Mạnh, sự cố “lạc
dòng” của bà Lê đã khiến hai mẹ con bà kẹt lại quê nhà và
trở thành mồi ngon cho những con qủy đỏ háo sắc. Đó dường
như là định mệnh, cay nghiệt và oan thiêng ! Đó đây, “chú
Nông” đang mật phục, chờ ngày “quất ngựa hồi phong”. Trong
giai đoạn sau ngày mất nước, toàn dân tộc sống trong sự
khủng bố kinh khiếp chưa từng có. Lũ người đầu trâu mặt ngựa
từ Bắc vào, cộng bọn nằm vùng và trở cờ 30 đã tạo ra cuộc
sống thời trung cổ cho người dân. Luật rừng được “công khai
hóa” và áp dụng khắp nơi, bố ráp hết thảy mọi tầng lớp nhân
dân. Chúng luôn mang bộ mặt hống hách, kênh kiệu để hạch
sách, bắt bớ và hăm dọa mọi người, nhất là các cô gái trẻ
đẹp. Gia Thư là con một trong những con mồi ngon nhất. Với
bản “lý lịch cá nhân : con sĩ quan cao cấp ngụy”, nàng trở
thành mục tiêu của những con qủy đỏ, lưỡi luôn thè ra chảy
dãi mỗi khi thấy gái đẹp. Khu phố nhà ở cũng thuộc dạng “đặc
biệt quan tâm” vì toàn nhà cửa sĩ quan cao cấp. Một số gia
đình bị chúng trục xuất, cướp nhà ngang nhiên, số khác sợ
quá “tự hiến”, số còn lại bỏ nhà vượt biên. Gia Thư và bà Lê
lâm cảnh túng quẫn trong cơ chế “tem phiếu”. Nền kinh tế
XHCN không cho người dân sở hữu bất kỳ một tài sản nào, dù
là nhỏ nhất. Ai lén cất giấu cái gì, dù chỉ là dăm ba lon
gạo hay một ít đường cát thôi cũng đủ “bóc lịch”. Sướng nhất
là bọn cầm quyền, mặc sức ngồi trên đầu trên cổ nhân dân.
Bọn chó săn làm tay sai cho chúng, ác nghiệt nhất phải nói
đến những tên công an phường. Bọn chúng xuất thân vô học,
bần cố nông, sau đi “bộ đội”, vì Đảng bắt vừa đi bộ vừa đội
nón cối, nặng quá chịu không xuể nên đổi ngành làm “công
an”. Mấy tên người Nam còn đỡ, đụng mấy tay Bắc kỳ nẩu thì
“ôi thôi ! lém đời ua” ( lúa đời em ). Tên CA phường trưởng
nhà Gia Thư tên Sết, quê Nam Định, khoảng 40, vừa thấy Gia
Thư trong buổi trình diện đã “nước mũi nước mồm thi nhau mà
chảy”. Thời đó, mấy tên này là vua một cõi. Chuyện nửa đêm,
xộc vào nhà dân “kiểm tra tình hình XHCN” là chuyện cơm bữa,
tạo ra nỗi kinh hoàng cho khắp mọi nhà. Một hôm, khoảng năm
1977, chúng xộc cửa vào nhà bà Lê, tra hỏi nhu thường lệ.
Lần này có cả tên Sết. Hai mẹ con run rẩy. Tên CA hất hàm
“chúng mày sao không ra trình diện tối hôm qua ?” ( tất cả
bọn VC khi ấy đều xưng tao mày với dân ). Bà Lê lấm lét nhìn
chúng “thưa cán bộ, hôm qua tôi bệnh, con gái tôi phải ở nhà
chăm sóc”. “à, chúng mày định “nàm” phản phải không”, “thưa
cán bộ, tôi đâu dám ạ !”, tên chó hất hàm “ai cho phép mày
cãi tay đôi vơi cán bộ hả ?! Còng đầu chúng “nại”, dẫn “nên”
phường”. Bốn tên CA xúm vào còng tay mẹ con bà Lê tống lên
xe, giải về phường.
Tại CA phường, chúng nhốt hai mẹ con bà Lê hai chỗ khác
nhau. Lát sau, chúng dẫn Gia Thư lên. Ba tên CA gương mặt
trời thần, hống hách nhìn Gia Thư tròm trèm. Tên Sặc, đứng
lên “dằn mặt” Gia Thư “cô này, cô có biết chế độ chúng ta là
ưu việt nhất thế giới không ? Đảng đã vì dân vì nước, giải
phóng nhân dân miền “Lam”, các cô không mang ơn cao núi rộng
này, còn định làm phản hả ?”. Gia Thư, thời điểm này, về tâm
lý, đã hồi phục, cô thực sự đã trưởng thành ( năm này, cô
tròn 20 tuổi ) nên không còn sợ chúng như sợ cọp nữa. Nàng
ngang nhiên đáp “tôi làm phản hồi nào ?”, tên Sặc chợt biến
sắc, cứng họng trước vẻ cứng cỏi bất ngờ của cô gái “thế…
thế sao hôm qua, ai cũng đi họp tổ dân phố, sao nhà cô không
đi ?”. “mẹ tôi đã nói với các ông rồi, tôi không cần lặp lại
!”. Cả ba tên CA mặt đần ra, chúng không ngờ ngồi trước mặt
chúng chỉ là một cô gái 20. Một tên đứng dậy đập bàn “ah,
con này “náo”, dám đôi co cán bộ à ?”. Gia Thư, vốn căm thù
bọn cướp nước, gây bao thảm cảnh cho nhân dân, kênh mặt lên
nhìn tên các bộ, ánh mắt rực lửa “Bác Hồ đã dạy các ông cách
ăn nói với dân thế hả ?”. Tên cướp ngày đưa cái mặt mo cứng
ngắc ra, líu lưỡi “mày…mày…”, hắn trợn mắt lên, rút khẩu
súng chĩa vào mặt Gia Thư. Nàng không hề sợ hãi, vì mối căm
hờn đã chất cao hơn núi, trừng mắt lại nhìn hắn. Tên CA mặt
đỏ như gấc, tay run run. Thấy thế, tên Sặc xua tay hắn đi và
ra hiệu cho chúng rút. Khi chỉ còn một mình hắn và nàng,
thấy hù dọa vô hiệu, hắn đổi tông ngon ngọt “cô em này, sao
cứng đầu thế hả ?”, hắn vừa nói vừa đi ra sau lưng Gia Thư,
đoạn tiếp tục giọng ba gai “chúng mày “núc” trước, bóc “nột”
nhân dân, bây giờ không chịu sám hối, thế thì “nàm” sao
hưởng sự khoan hồng của cách mạng ?”. Gia Thư im lặng, mặt
cô ửng đỏ, ánh mắt sôi lên căm hận. Trong thâm tâm nàng hiện
ra một miền Nam điêu tàn và khốn khổ, những xác thân tả tơi
không nhà không cửa, vật vờ như những bóng ma và nàng tiếc
cho sự hy sinh của bao chiến sĩ VNCH, trong đó có cha nàng,
để rồi ngày hôm nay, gia đình và nhân dân họ đang bị hành hạ
bởi lũ giặc thù. Gia Thư thật sự đã không còn là một con nai
dễ bị xẻ thịt nữa. Tên CA giở trò “vừa đánh vừa xoa”, hắn lù
lù tiến tới vuốt tóc Gia Thư, giở giọng cười khả ố “cô em
“lày”, đầu cứng gì mà cứng thế, hehehe”â ( lấy tay cốc đầu
nàng ) . Gia Thư đứng bật dậy, đẩy tay hắn ra. Nàng trừng
mắt nhìn hắn. Thấy thế, hắn trợn mắt lên, lè lưỡi ra nhái
lại nàng “Ối, ối, “nàng” nước ơi, kíu… kíu…”, sau đó là một
tràn cười man rợ. Nghe cái giọng Bắc kỳ eo éo của hắn, nàng
chỉ muốn cho một cái bợp tai. Bất thình lình, hắn đưa tay
tát cái bốp vào mông Gia Thư. Nàng giật mình hét lên “ông
làm cái gì vậy ?”. “Ối, cô em “lày”, cán bộ đập muỗi cho mà
không biết cám ơn sao ?”. “tôi không cần !”. Tên Sặc đổi sắc
mặt, hắn gườm gườm Gia Thư như con bò tót trong trường giác
đấu, xong đi ra ngoài. Gia Thư vừa căm giận,lại vừa lo lắng.
Nàng sợ có chuyện chẳng lành đêm nay. Đúng thế thật, ít lâu
sau, hắn cởi trần, bận quần xà lỏn bước vào. Gia Thư đứng
lên, nép vào cạnh bàn, thủ thế. Gương mặt tên Sặc đỏ gấc,
giọng nói hắn hổn hển mùi rượu “mày dám chống lại cán bộ,
tao sẽ cho mẹ con mày tù rục xương !”, nói xong hắn lao vào
đè nàng xuống. Gia Thư chộp lấy cục chận giấy trên bàn nện
vào đầu hắn, máu xịt ra, nhễu lòng thòng càng làm tên cuồng
dâm say máu. Hắn chộp áo Gia Thư xé toạc ra, nàng hét lên
thất thanh. Sẵn bàn tay nắm tóc hắn, Gia Thư cào rách mặt
tên CA đểu cáng. “Á !” hắn rống lên đau đớn, giáng cho nàng
mấy bạt tai làm nàng xây xẩm mặt mày. Và ngay lập tức, cái
quần nàng bị lột ra. Hắn há miệng, đợp ngay một phát vào chổ
kín Gia Thư. Nàng hét lên đau đớn, giẫy giụa đạp hắn ra,
nhưng có hề gì. Tiếng hét thất thanh của con gái làm giật
mình bà Lê bị giam cách đó mấy buồng. Sau khi dỏng tai nghe
và xác định đó là tiếng la hét cầu cứu của con gái mình, bà
Lê hốt hoảng “phụ họa” “trời ơi, mấy ông làm gì con tôi vậy…
trời ơi… thả con tôi ra !”. Không biết Gia Thư là cô gái
miền Nam thứ mấy bị hắn hãm hiếp, nhưng hắn vừa hiếp vừa nạt
nộ “chúng tao hiếp hết đàn bà con gái miền Nam, coi chúng
mày làm gì được”. Hắn banh chân nàng ra, le lưỡi sồm soàm
“ăn khô mực”. Tiếng hét thất thanh của Gia Thư làm tim bà Lê
đau nhói, bà ôm chặt song sắt, gục xuống, vừa la vừa khóc
“con ơi… làm ơn tha cho con tôi… nó còn nhỏ lắm… cán bộ ơi,
xin làm ơn”.
Nhưng cán bộ bây giờ đã tạm thời “đóng màn nhĩ” nhưng lại
“mở khẩu” hết công suất. Hắn liếm mút như muốn nuốt chửng âm
hộ nàng. Gia Thứ quằn quại, kêu khóc thảm thiết. Cơn ác mộng
Nông Tặc lại hiện về. Sau đó, “anh bộ đội cụ Hồ” dùng hết
sức nhét “cây AK” vào âm đạo “người con gái miền Nam anh
dũng tải đạn chống Mỹ”. Hắn nắc tàn bạo, miệng nốc ra bú hết
ngực Gia Thư. Không còn gì sướng bằng lúc này đối với hắn.
Cái sướng nhất là cảm giác hiếp dâm vợ con kẻ thù. Đó là kế
hoạch man rợ và thâm độc có tổ chức của Việt cộng. Thế nên
dân gian đã lưu truyền câu nói “bất hữu” của một tên cán bộ
lãnh đạo cao cấp CS “Ta đầy chúng nó trong lao tù cực hình.
Nhà cửa chúng nó, chúng ta tịch thu. Vợ con chúng nó, chúng
ta hiếp hết, không chừa mống nào”. Tên gian Cộng sau khi nắc
liên tu bất tận đã bắn tinh ào ạt vào tử cung Gia Thư. Hắn
không ngờ, cô gái con ông Đại tá nổi tiếng này, không những
xinh đẹp mà thân hình còn quá bốc lửa. Cặp vú nở nang, hồng
hào, cặp đùi trắng nõn nà, mái tóc dài óng mượt, giọng nói
mê ly truyền cảm, dù có nhiều từ “bất đồng ngôn ngữ” nhưng
dù sao “thế mới “nà” số một”. Sau khi “phóng tinh” đã đời,
hắn còn chồm lên ngậm đầu vú Gia Thư mút lấy mút để thì bị
nàng lấy hết sức cho một cái tát nổ đom đóm mắt. Nhưng thật
bất ngờ, hắn không những không nổi khùng mà còn toét miệng
cười “con gái miền Nam, hiếp sướng thật nhưng mà đánh cũng
đau ra phết ! hehe”, vừa cười vừa lấy tay xoa xoa má. Hắn
đứng dậy bỏ đi. Gia Thư cuộn người lại, đau đớn, tủi nhục.
Nàng tức tưởi khóc không thành tiếng. Bà Lê bên này, cũng
thế. Hai mẹ con, cùng hòa tiếng khóc thê lương, hờn căm như
hàng triệu đồng bào miền Nam khác…
Hết phần 5.
Xin xem tiếp phần 6 “ĐẢO HẢI TẶC” để thấy rõ sự thật trần
trụi về một chế độ bạo tàn đã đẩy hàng triệu đồng bào ra
biển khơi, cùng sự “tái xuất hiện” của Phan Nông, sau thời
gian ở ẩn. Cuộc đời Gia Thư là minh chứng tiêu biểu nhất cho
thân phận con người trong “chế độ Xã hội chủ nghĩa”, vậy nên
sẽ rất vô cùng đáng tiếc, nếu bạn bỏ qua bộ truyện lịch sử
bi ai này.
Nhà văn Tam Nguyen Anh, San Jose.
E-mail : [email protected]
(Hết
Phần 5 ... Xin mời xem tiếp
Phần
6) |