tử ra thả, bằng không
ta sẽ giết hết cả lũ bây giờ!". Tôn Tẩn nghe báo,
bèn dạy Ngô Giải,
Mã thăng đem binh ra trận mà trái bại, nhữ Bàng
Quyên về cửa dinh
Tề. Hai tướng đi rồi, Tôn Tẩn lại sai anh em họ Tu
đem tụ thần kỳ ra
chờ ở cửa dinh như trước.
Ngôi Giải, Mã Thăng
đem binh ra tới trận, Bàng Quyên hét rằng:
- Hai tướng tên gì,
phải nói cho mau!
Ngô Giải, Mã Thăng
xưng tên rồi hỏi Bàng Quyên rằng:
- Mi là ai, sao dám
tới đây chịu chết?
Bàng Quyên nói:
- Ta là Võ an quân
nước Ngụy, tới đây đòi thái tử ta về. Nếu chúng
bây giao trả thì
thôi, bằng nghịch mạng ta chặt đấu cả lũ.
Ngô, Mã hai tướng
không thèm đáp nữa, cứ việc áp lại đâm đánh.
Bàng Quyên hươi đao
nghinh chiến. Cả ba đánh nhau được hơn năm
mươi hiệp. Ngô Giải,
Mã Thăng bèn quày ngựa chạy về dinh. Bàng
Quyên xua binh đuổi
theo. Tu Văn Long,
Tu Văn Hổ thấy Bàng Quyên
rượt gần tới trước
dinh bèn phất cờ tụ thần. Tôn Tẩn bèn niệm lục giác
linh văn, làm phép
thâu đất, lập tức binh Tề lui lại sau đó hai mươi dặm,
rồi có vô số binh ma,
tướng quỷthế lại đầy đủ để chờ binh Bàng Quyên
tới. Bàng Quyên kéo
binh rượt tới trước dinh, thừa thế chém giết quan Tề
rất nhiều, rồi đánh
thẳng vào trong dinh chèm giết đến nỗi máu chảy
thành suối, thây chất
nên gò!
Khi chiếm được dinh Tề
rồi, Bàng Quyên bèn dạy quân sĩ đếm bếp
lại. Thấy số còn tám
mươi ba ngàn cái. Bàng Quyên mừng lắm, tính lại
thì biết đã giết binh
Tề hết năm muôn năm trăm rồi. Bây giờ Bàng
Quyên bèn hạ lệnh binh
Ngụy đồn binh trong dinh Tề.
Liền khi đó, quân thám
mã vào báo cho Bàng Quyên hay rằng có
tướng Tề là Lý Mục kéo
binh ra trận. Hai tướng gặp nhau liền sáp lại
đánh. Đánh được vài
mươi hiệp, Lý Mục bèn chạy về dinh Bàng Quyên
rượt theo tới trước
dinh Tề. Anh em họ Tu liền phất cờ tụ thần, Tôn Tẩn
lại làm phép thâu đất,
bao nhiêu binh Tề đều lui lại hai chục dặm, để trại
lại cho binh ma tướng
quỷcố thủ. Bàng Quyên rượt Lý Mục tới trước trại,
thừa thế chém giết rất
nhiều rồi cướp luôn trại mà đồn binh. Đồng binh
xong lại sai đếm bếp
nấu. Bây giờ số bếp chỉ còn năm muôn một ngàn
cái. Bàng Quyên tính
một trận mà đã giết quân Tề tới ba muôn hai ngàn
rưỡi tên nữa thì mừng
lắm.
Giây lát lại có quân
váo báo với Bàng Quyên rằng có tướng Tề là
Độc Cô Trần tới khiêu
chiến. Bàng Quyên lập tức kéo binh ra trận. Hai
đàng gặp nhau liều sáp
lại đánh. Đánh được vài mươi hiệp, Một Cô Trần
trá bại, Bàng Quyên rượt
theo tới cửa trại, anh em họ Tu liền phất cờ,
Tôn Tẩn lại làm phép
lui binh Tề ra sau hai chục dặm nữa, để binh ma
tướng quỷở lại trại và
chịu cho binh Ngụy chém giết. Bàng Quyên rượt
Độc Cô Trần chạy đã xa
rồi, bèn cướp trại Tề mà đồn binh, và đếm thử
số bếp lại thì chỉ còn
ba muôn. Bàng Quyên mừng lắm, đinh ninh trong trí
rằng nếu đánh luôn hai
trận nữa ắt binh Tề không còn manh giáp mà về,
thế nào cũng cứu được
thái tử.
Dùng mưu và làm phép
luôn mấy trận đã nhử Bàng Quyên theo gần
tới Mã lăng đạo rồi,
bây giờ Tôn Tẩn bèn kêu Tu Văn Long, Tu Văn Hổ,
Ngô Giải, Mã Thăng tới
dặn nhỏ ít câu rồi sai bốn tướng đem binh tới
mai phục chung quanh
Mã Lăng đạo.
Nói lại Bàng Quyên cướp
được trại Tề luôn bốn lần thì thích chí lắm,
quyết đánh luôn vài
trận nữa để cứu thái tử, nên ngày hôm ấy ngồi trong
dinh suy định mưu kế.
Đương lúc suy nghĩ, bỗng thấy quân vào báo có
người đạo sĩ xin ra
mắt. Bàng Quyên bèn truyền cho mời vào. Đạo sĩ
được lệnh vào trung
quân ra mắt Bàng Quyên rồi nói rằng:
- Tiêu đạo là học trò
của Huỳn Bá Dương tên là Hoàng Phủ Trí, nhân
nghe phò mã cầu hiền
chuộng sĩ nên giúp sức đánh Tề. Tiểu đạo tuy học
dở tài hèn song cũng
rõ được ba quyển thiên thơ, hay kêu mưu gió hú,
hóa đá thành binh. Nếu
phò mã tin dùng, ắt nghiệp bá dễ thành như trở
tay vậy!
Bàng Quyên nghe mấy
lời quả quyết, nhìn mặt Hoàng Phủ trí có vẻ
khác phàm thì cả mừng
nói rằng:
- Nếu được tiên sinh
giúp tôi thời may lắm. Vậy bây giờ tiên sinh nên
nghĩ cách cứu thái tử
giúp tôi.
Hoàng Phủ Trí nói:
- Tiểu đạo tới đây
cũng vì việc thái tử đó. Xin phò mã hãy để việc đó
mặc tiểu đạo lo liệu
tính!
Bàng Quyên cả mừng sai
quân dọn chỗ bên tả dinh cho Hoàng Phủ
Trí ở.
Lúc bây giờ, Tôn Tẩn ở
bên dinh Tề đoán quẻ biết rõ việc của Bàng
Quyên bèn nói với Lỗ
vương rằng:
- Bàng Quyên mới thâu
dụng một người, người đó là học trò của
Huỳnh Bá Dương tên là
Hoàng Phủ Trí, phép tắc khá lắm, tuy không làm
chi nổi chúng ta, song
cũng làm chúng ta mất công ít tháng.
Lỗ vương nghe dứt bèn
nói:
- Vậy tiên sinh không
có cách chi để trừ nó à?
- Có, song để làm thử
coi. Được thì xong xuôi mọi việc, còn không
được thì phải đánh
nhau một trận rất to.
Nói dứt lời, Tôn Tẩn
bèn lấy một miếng giấy viết bốn câu thơ rồi
niệm chú làm phép nổi
lên một trận gió bay qua dinh Ngụy.
Hôm nay, Bàng Quyên
đương ngồi trong dinh sai người đi mời Hoàng
Phủ Trí tới bàn việc,
thình lình thấy có miếng giấy theo gió bay tới rớt
bên chỗ ngồi, bèn lượm
lên xem, trong ấy có bốn câu thơ rằng:
Học trò Bá Dương Hoàng
Phủ Trí,
Ràng rẽ thiên thơ,
thông đạo lý
Không phải tới giúo Võ
an quân.
Trá hàng ứng Tề đặng
phá Ngụy
Bàng Quyên xem thơ
xong mừng thầm rằng: "Té ra thằng này là
quân tế của Tề à! May
có trời giúp ta bốn câu thơ, không thời việc cả sẽ
hư!"
Vừa khi ấy quân sĩ mời
Hoàng Phủ Trí tới. Bàng Quyên liền trợn mắt
rút gươm chém Hoàng
Phủ Trí rớt đầu chết tươi.
Tôn Tẩn ở dinh Tề đoán
quẻ hay Bàng Quyên đã giết Hoàng Phủ Trí
thì mừng lắm, nói lại
cho Lỗ vương biết.
Vì Bàng Quyên đã lẩn
tưởng Hoàng Phủ Trí là kẻ thích khách nên
trong trí liền nảy ra
một kế, lập tức sai quân đi mời bộ tướng là Trương
Tài tới cho mình dạy
việc. Trương Tài tới ra mắt Bàng Quyên. Bàng
Quyên nói rằng:
- Nay ta cần dùng mi
đi qua dinh Tề dọ thám binh tình một chuyến,
mi có dám hay không?
Trương Tài nói:
- Tưởng chuyện chi rằng
khó, chớ chuyện đó dễ như chơi!
Bàng Quyên nói:
- Ngoài sự dọ thám
binh tình, ta còn cậy mi một việc nữa là lén giết
Lỗ vương và quân sư
của y.
Trương Tài nói:
- Tôi đủ gan dạ và tay
chân lạnh lẹ làm việc đó có khó gì!
Bàng Quyên cả mừng kê
miệng vào tai Trương Tài dặn nhỏ ít câu rồi
nói.
- Ráng lo xong việc ta
sẽ trọng thưởng.
Trương Tài dạ từ giã
lui về giắt gươm vào mình lẻn ra đi.
Bên dinh Tề, Tôn Tẩn đoán
quẻ biết mưu của Bàng Quyên bèn nói
cho Lỗ vương hay rằng:
- Bàng tặc lại sai
Trương Tài tới giả đầu hàng đặng lén giết điện hạ
và dò tin tôi. Vậy
chúng ta phải đề phòng mới được.
Lỗ vương gật đầu. Tôn
Tẩn lại truyền lại quân sĩ rằng:
- Từ nay về sau không
được gọi là Tôn Tẩn quân sư nữa, phải gọi là
Huỳnh Bá Dương quân sư
sai khiến. Nếu ai
vi lệnh ta sẽ chém đầu làm
gương.
Ba quân nghe truyền
đều y lệnh gọi Tôn Tẩn là Huỳnh Bá Dương.
Sau đó một buổi, quân
kỳ bài vào báo cho Lỗ vương xá một xá rồi
nói:
- Tiểu vương là Trương
Tài, bộ hạ của phò mã Bàng Quyên, vì phò
mã ỷ thế khi người, vô
cớ đánh đòn tiểu tướng, vì tủi nhục với bạn bè,
nên tiểu tướng phải
lánh mặt kiếm nơi khác mà lập thân. Nay nghe đại
vương yêu hiền chuộng
sĩ nên mới tới đây xin làm bầy tôi dưới trướng!
Lỗ vương nghe dứt bèn
đáp:
- Về việc quân, ta
không trọn quyền. Vậy để hỏi lại Huỳnh Bá Dương
quân sư coi thế nào?
Huỳnh Bá Dương giả
đáp:
- Người này có dõng
lại đa mưu nên dùng lắm bỏ qua rất uổng.
Lỗ vương gật đầu tỏ
lời thâu Trương Tài rồi dạy lui ra hậu trại.
Trương Tài được dung
nộp, thích chí lắm tưởng Lỗ vương đã tới số chết
nên mới lầm mưu mình.
Từ đây Trương tài ở trong trại Tề dọ hỏi tin tức
Tôn Tẩn, song chỉ nghe
quân sĩ nói Tôn Tẩn đã chết rồi va quân sư bây
giờ là Huỳnh Bá Dương
mà thôi.
Một hôm, Tôn Tẩn sai
một tên quân rất tin cậy, bện hai cái hình cỏ to
lớn như người thường
cho mặc y phục, một cái giống như Lỗ vương Điền
Kỵ, một cái giống như
quân sư Tôn Tẩn, trong có hai hình ấy đểu có để
bong bóng heo đựng đầy
máu heo, tay chân đầu cổ đều có gắn lắc léo để
dễ làm cho cử động,
rồi đem hai hình ấy để trong quân trướng chuyền
dây vào vách cho ít
tên quân núp trong ấy cầm coi chừng. Đoạn đốt vài
cái đèn lu lu ở trong
quân trướng, mấy tên quân cầm dây kéo tới giựt lui
làm cho hai hình nộm
cử động như là nói chuyện thầm. Bây giờ Tôn Tẩn
bèn đọc linh văn, họa
phép cho hai hình nộm được cơ lin như người thiệt,
rồi cùng Lỗ vương lui
ra trại sau mà yên nghĩ.
Đêm đó tới canh ba,
Trương Tài cấp đao lén vào quân trướng, dưới
bóng đèn lờ mờ, nó
thấy hai hình cử động như sống, quyết chắc Lỗ vương
và quân sư đương bàn
luận hình cơ thời cả mừng đi lần vào, khi thấy
chẳng có quân hầu bèn
xông tới trước ch1m mỗi người một đao. Hai
người đứt đầu té lăng
máu chảy dầm dề.
Hành thích xong,
Trương Tài bèn lén ra khỏi dinh Tề đi riết về trại
Ngụy ra mắt Bàng Quyên
trình lưỡi đao dính máu lên và thuật rõ việc
hành thích, Bàng Quyên
nghe dứt mừng rỡ vô cùng, quyết ý thế nào cũng
sẽ đánh tan binh Tề mà
cứu Thái Tử.
Ngày hôm sau, Bàng
Quyên sai quân dọ tin tức về việc Trương Tài
hành thích Lỗ vương và
quân sư Huỳnh Bá Dương coi có thiệt hay không.
Mãi tới chiêu hôm ấy,
quân báo rằng trại tề đã hạ cờ hiệu Lỗ vương và
Huỳnh quân sư rồi, chỉ
còn có một cây cờ hiệu của Viên Đạt mà thôi.
Bàng Quyên được tin
này lại mừng rỡ bội phận.
Tới chạng vạng ngày
ấy, Tôn Tẩn sai người ra sau khiêng mười cái
rương ra trung quân,
rồi giở rương ra lấy hết những mặt nạ trong đá mà
phát cho quân sĩ mỗi
đước một cái và dặn mưu chúng nó phải làm như
vầy... Như vầy...
Quân sĩ được lệnh lập
tức kéo nhau tới mai phục gần dinh Ngụy.
Đêm ấy đến canh ba,
bọn quân sĩ mai phục đó bèn bỏ tóc xõa, đeo
mặt nạ men lần tới
dinh Ngụy, cả tiếng kêu khỏc rều rĩ rất ghe gớm. Kêu
khóc chán lại gọi tên
Bàng Quyên mà mắng là gian thần bội hữu, diệt lý
bại luân, đã giết
chúng nó thì nay phải thừơng mạng.
Bàng Quyên đương ngủ
trong dinh, nghe tiếng kêu khóc thì tỉnh giấc
dậy, lắng nghe một
hồi, trong lòng đã run sợ, kịp đến lúc nghe chúng kêu
mắng và đòi thường
mạng thì nghĩ thầm rằng:
- Có lẽ ta giết nhiều
quân Tề, nên ngày nào hồn oan chúng nó hiện
đến đòi thường mạng.
Vậy kẻ chánh khí nào sợ tà mi ta hãy ra khu trục
chúng nó đi rồi!
Nghĩ đoạn, Bàng Quyên
bèn điểm binh nổi đèn đuốc rồi lền ngựa
kéo ra khỏi trại.
Bàng Quyên ra tới
ngoài trại, bỗng có một trận gió lạnh thổi tới, rồi
có vô số yêu ma, mặt
xanh, mặt đỏ, đầu tóc rũ rượi, kết đoàn lũ, kêu
khóc rền rĩ ngoài xa
xa. Bàng Quyên bèn nói ta rằng:
- Chúng oan hồn kia
không được làm náo động quân dinh ta lúc đên
khuya như vầy. Hãy tan
đi nơi khác cho mau, chờ khi ta ban sư về nước
Ngụy ta sẽ làm chay
siêu độ cho!
Chúng oan hồn nghe
dứt, đã không tan đi mà lại càng kêu khóc mắng
chửi Bàng Quyên nữa.
Bàng Quyên cả giận lùa binh đuổi theo.
Bàng Quyên đuổi lũ hồn
oan một hồi bỗng tới Mã Lăng đạo, thấy nơi
ấy có một cây huỳnh
dương rất to, trên cây có treo ngọn đèn rất tỏ, dưới
bóng đèn, da cây lủng
sâu biến thành sáu chữ:
- Bàng Quyên chết tại
cội này.
(Nguyên mấy năm trước
Tôn Tẩn giận Bàng Quyên bạc nghĩa, chặt
chân mình nên mọng cho
y phạm lời thề là chết tại Mã Lăng đạo, nên tới
trước lấy mực trộn mật
mà viết như vậy. Ngày qua tháng lại, sâu mọt
đánh hơi ngọt, cạp đục
vào da cây nên nay hiện thành sáu chữ tự nhiên).
Bàng Quyên dòm lên cây
huỳnh dương thấy mấy chữ ấy, biết là chỗ
chẳng lợi cho mình,
nên liền truyền lệnh ba quân lui về. Chẳng dè quân
Ngụy chưa kịp quày lại
bỗng nghe có tiếng pháo nổ, có bốn tướng Tề là
Mã Thăng, Ngô Giải, Tu
Văn Long, Tu Văn Hổ đem một muôn hình