Bàng
Quyên bực mình vì Tôn Tẩn nên về phủ nghĩ ra một kế, cho
đòi
bọn ăn mày ở viện Tỵ Điền tới giao chúng nó phải giữ gìn Tôn Tẩn
cho kỹ, nếu sơ thất sẽ trị tội cả bọn. Từ đó Tôn Tẩn bị bọn ăn
mày ở viện
Tỵ
Điền đem về thay nhau mà giữ rất nghiêm nhặt.
Nói về nước Tần, ngày nọ vua Hiếu Công ra triều có quan Huỳnh
môn vào tâu rằng:
-
Ngoài ngỏ có một đạo nhân khóc ba tiếng, cười ba tiếng rồi xin
vào
ra
mắt thánh thượng.
Hiếu Công cho mời đạo nhân vào hỏi rằng:
-
Đạo sĩ ở núi nào, tên chi, vì cớ sao mà khóc rồi cười?
Đạo sĩ tâu:
-
Bần đạo họ Vương tên Ngao, học trò của Huất Liêu ở Di Sơn. Bần
đạo khóc ba tiếng là khóc thương cho người họ Tôn tên Tẩn ở nước
Yên
vì
người ấy lên núi Vân Mộng học đạo với Quỷ Cốc được thông thiên
thơ, giỏi bát môn độn pháp, lục giáp linh văn, kêu gió thét mưa,
khiến đá
làm binh, tưởng đâu có lúc rồng nọ gặp mây, ai dè bị anh em bạn
là
Bàng Quyên, phò mã nước Ngụy, sợ Tôn Tẩn giúp nước nào khác thì
có
hại cho mình, nên ba lần sai người lên non rước Tôn Tẫn về Ngụy
rồi
kiếm cách chận chân và giam cầm ở Tỵ Điền viện. Còn bần đạo cười
là
cười các nước chư hầu không nước nào biết dùng kẻ anh tuấn. Nếu
nước
nào sai người vào Ngụy lén đem Tôn Tẩn về phò tá thì non sông
yên ổn,
xã
tắc bền vững. Nay bần đạo tới Tần cũng bởi ý ấy. Hiếu Công nghe
Vương Ngao nói dứt bèn phán:
-
Trẫm đâu có dè bậc anh tài đương mai một ở nước Ngụy, nếu không
có
tiên sinh chỉ cho thì đã bỏ qua một cuộc may ít có.
Phân dứt lời, một mặt truyền Quang Lộc đại phu lo khoản đãi
Vương
Ngao, một mặt hỏi các quan coi có ai dám lãnh mạng sang Ngụy
trộm
Tôn Tẩn về. Hỏi đến Võ An Quân là Bạch Khởi thì Khởi xin đi.
Hiếu
Công hỏi:
-
Khanh làm sao đi được?
Bach Khởi tâu:
- Lúc này Bàng
Quyên đương ỷ tài hống hách muốn bắt các nước
cung thần nên
lập bài Đại Ngôn. Vậy bệ hạ nên viết tờ hàng biểu, thần
đem theo mình
mượn tiếng là đi xin hàng phục, thì khắc vào được trong
nước Ngụy.
hiếu Công khen
phải, viết hàng biểu và ra lịnh cho Bạch Khởi sang
Ngụy.
Nói về Bạch
Khởi đem ít tên tùng nhân đi sang nước Ngụy vào yết
kiến Ngụy vương
rồi dâng hàng biểu lên và tâu rằng:
- Nước chúng
tôi nghèo thiếu lắm muốn đem cống lễ sang nạp song
không lấy đâu
cho có, vậy nay xin xưng thần còn cống lễ thì hẹn về sau.
Ngụy vương nhận
tâu rồi truyền quan khoản đãi Bạch Khởi.
Sau khi tạ từ
vua Ngụy ra ngoài, Bạch Khởi liền cải dạng làm anh tú
tài lên tới
huyện Tỵ Điền để tìm Tôn Tẩn. Tới nơi thấy ăn mày đông có
trên ngàn đứa,
không biết đứa nào là Tôn Tẩn, Bạch Khởi chưa kịp hỏi,
thì ở chỗ thềm
thấp kia có người chống hai cây gậy cuối mặt ca rằng:
Nhờ non sông
nảy sinh anh tuấn,
Cha con mấy
người thảy oai chấn
Bỏ cha mẹ đi
tìm thầy tiên,
Học đạo bấy năm
núi Vân Mộng
Thông hiểu
thiên thơ và linh văn,
Có tài hươi
gươm trời đất động,
Kêu mưa, hú gió
việc thường chơi,
Quăng đâu làm
binh ai dám chống.
Nào rõ mạng vận
sao đảo điên,
Sa vào thiên la
rồi địa võng.
Ai tưởng ta
điên, ừ điên ngay,
Ấy ta giả bộ
người lêu lỏng.
Một ngày ta xem
như một năm,
Nằm gai nếm mật
mãi mong ngóng.
Mong ngóng
người nào tới cứu ta,
Ta nguyện thắp
hương tạ ơn trọng.
Bạch Khởi chờ
người ca dứt, bước lại gần kêu nhỏ rằng:
- Tôn
tiên sinh đó à?
Tôn
Tẩn ngó lên cười rằng:
- Bạch
đại nhân nghe ca mới nhìn được tôi, không thì tìm cả kiếp
cũng
chẳng được!
Bạch
Khởi nói:
- Lạ
thay, tôi chưa tỏ tên họ sao tiên sinh lại biết, hay là tiên
sinh biết
rõ
việc đã qua và việc chưa tới? Vậy tiên sinh biết làm gì hay
không?
Tôn
Tẩn nói:
- Đại
nhân vâng lời Tần chúa tới trộm tôi ra khởi nước Ngụy!
Bạch
Khởi đáp:
-
Tiên sinh biết trước như vậy thật là bậc tiên tri. Tôi tới đây
chỉ vì ý
đó!
Tôn
Tẩn nói:
-
Uổng công đại nhân lặn lội tới đây vô ích. Tôi vốn có nạn một
ngàn
ngày,
nay nạn chưa khỏi hạn, khó mà đi được. Đại nhân chớ ở đây lâu
mà bị
hại, lát nữa sẽ có người của Bàng Quyên tới rình chúng ta. Đại
nhân
hãy về nước. Sau này tôi sẽ có dịp giúp đại nhân một tay.
Bạch
Khởi nghe Tôn Tẩn nói quả quyết như vậy không trả lời được
nữa
bèn cáo từ lui ra, rồi trở về nước tâu lại cho vua Trần hay.
Lại
nói qua Vương Ngao sang nước Sở hiểu dụ cho vua Sở cứu Tôn
Tẩn
về mà dùng. Vua Sở nhận lời sai Huỳnh Hiệp giả vào Ngụy nộp
cống
lễ để trộm Tôn Tẩn. Huỳnh Hiệp đi vào Nguỵ trộm cũng không
được.
Vương Ngao lại sang hiểu dụ ở nước Hàng và nước Triệu. Hàng
vương
sai Trương Xa, Triệu vương sai Liêm Pha, đều giả vào nộp cống
để
trộm Tôn Tẩn, song cũng không trộm được. Vương Ngao đi giáp bốn
nước
mà vẫn chưa xong việc Tôn Tẩn thì nghĩ thầm rằng: "Có lẽ bốn
nước
đó chẳng có duyên với bậc đại tài vậy!".
Bây
giờ nói về Bàng Quyên đã nhiều phen bày mưu với Châu Hợi để
tìm
cách giết Tôn Tẩn. Mỗi lần bàn là mỗi lần bị Châu Hợi bác đi.
Ngày
nọ
Châu Hợi đi vào viện Tỵ Điền thăm Tôn Tẩn. Vào tới nơi thấy Tôn
Tẩn
nằm trên thềm đá vỗ tay vào đá mà ngâm rằng:
Cội
tòng trăm thước cao rườm rà.
Ngọn
quét mây chiều đón gió qua,
Nhánh
tủa sum xuê mà kể số!
Lá
che rậm rạp biết bao xa.
Khi
đưa chim phụng về Nam hải,
Lúc đón
vua rồng lại Bắc a.
Nếu
gặp xuân về thêm tốt rợp,
Có
khi rường cột chống muôn tòa.
Tội
thấy chú tiều không tai mắt.
Xách
búa hăm hở đi trẩy qua,
Dòm
ngó dáo dát cây tòng tốt.
Rồi
hươi búa chặt nhánh vài ba.
Ừ ừ
lúc khóc lúc cười ca.
Như
thể cá ở trong rọ mà,
Ai
dám buông tha ra biển cả.
Thành
rồng ngày ấy chẳng bao xa.
Châu
Hợi nghe dứt bước tới hỏi rằng:
-
Tiên sinh giả điên à?
Tôn
Tẩn không đáp. Châu Hợi lại nói:
-
Tiên sinh chớ nghi tôi, Bàng Quyên định kế hại tiên sinh, song
mấy
lần
bàn với tôi, tôi điều bác cả.
Tôn
Tẩn nói:
- Ông
đã mách cho tôi hay thì tôi cũng mách cho ông biết. Ông sẽ có
cái
nạn một trăm ngày.
Châu
Hợi thất kinh nói:
-
Tiên sinh cứu tôi được chăng?
Tôn
Tẩn nói:
- Ông
nên lánh đi một trăm ngày là được.
Châu
Hợi nghe dứt, trở về phủ tỏ lại cho phu nhân hay. Lưu phu nhân
nói:
- Tôn
Tẩn là học trò của Quỷ Cốc biết việc quá khứ vị lai, vậy ông
nên
nghe theo lời y mà tránh đi một trăm ngày cho xong, mai này tôi
vào
triều
tâu rằng ông đau, nên nghỉ chầu ở nhà dưỡng bịnh. Chừng nào qua
khỏi
tai nạn sẽ ra mặt.
Châu
Hợi khen phải. Hôm sau Lưu phu nhân vào triều xin phép cho
chồng
nghỉ chầu.
Châu
Hợi lánh mặt mãi như vậy vừa được chín mươi chín ngày, tới
ngày
chót buồn lòng ra sau vườn chơi. Vừa đi tới vườn bỗng thấy có
một
con
quạ đậu trên vách ngó mình mà kêu rất thê thảm. Châu Hợi giận
quá
lấy
cung tên ra nhắm nó mà bắn. Tên bay ra không trúng quạ, lại xẹt
qua
vườn
nhà bên cạnh.
Nguyên vườn bên cạnh là vườn hoa của quan thừa tướng Trịnh An
Bình.
An Bình có một nàng con gái tên là Ái Liên năm nay tuổi lên bảy,
sắc
đẹp vô song, nên An Bình cưng lắm. Ngày ấy, Ai Liên cùng các thị
tì
ra
sau vườn hoa chơi giỡn. Ái Liên vừa leo lên cây đu để xích, chẳng
dè
có
một mũi tên từ bên kia bay qua găm vào giữa ngực, nàng liền nhào
xuống
đất chết liền. Các thị tì lớp đỡ Ái Liên lớp la ré lên. Cả thảy
không
ai biết tên từ đâu bắn lại. Đương lúc ngơ ngẩn ấy, một đứa gia
đồng
của Châu Hợi bắc thang leo lên đầu vách kêu bọn thị tì hỏi rằng:
- Lão
gia tôi vừa bắn lạc một mũi tên qua đây các cô nương có gặp
chăng?
Các
thị tỳ la rập lên rằng:
- À,
vậy thời chủ mày đã bắn chết tiểu thơ ta rồi. Ở láng giềng mà
như
vậy để rồi coi!
Chúng
nó la dứt liền cầm mũi tên đem vào trong phủ báo rõ đầu đuôi
cho Trịnh An Bình hay.
An
Bình nghe báo có họa, lật đật ra vườn hoa thấy con nằm dưới giá
đu
thì khóc rống lên rằng:
-
Châu Hợi ơi, mi ác lắm. Mi giả bịnh đặng ở nhà diễn tập cung mà
hầu có tạo phản nên mới bắn nhầm con ta chết oan như vậy!
Khóc rồi quày ra lên ngựa chạy thẳng vào triều kêu oan. Ngụy
vương
nghe kêu oan, liền cho đòi An Bình vào hỏi.
An Bình
một mực tâu là
Châu
Hợi âm mưu làm phản diễn tập cung mã nên bắn lạc chết con
mình.
Ngụy vương không biết thiệt giả, lập tức sai quan quân đi bắt
Châu
Hợi
tới tra hỏi. Châu Hợi cứ thiệt khai rằng:
- Vì
đau vừa bớt ra dạo vườn hoa, gặp con quạ ngó mình kêu thảm
nên
giận bắn quạ.
Ngụy
vương không tin muốn tra tấn song vì mắc đi cầu mưa ở miễu
Thiên
Tề rất gấp nên dạy giam Châu Hợi vào Nam lao chờ ngày xét hỏi.
Vợ
Châu Hợi là Lưu phu nhân thấy chồng mắc họa bèn giả cớ đi vào
Tỵ
Điền viện thí tiền, để tìm Tôn Tẩn mà cầu cứu. Tôn Tẩn thấy Lưu
phu
nhân
tới bèn nói:
-
Chồng bà không nghe lời tôi nên gây ra họa lớn như vậy!
Lưu
phu nhân khóc lóc năn nỉ xin Tôn Tẩn cứu chồng. Tôn Tẩn bảo:
-
Thôi bà hãy về, để chuyện đó mặt tôi.
Lưu
phu nhân gạt lệ ra về. Đêm hôm ấy, đúng canh ba Tôn Tẩn vẽ
phù,
niệm thiên la địa văn, rồi giũ tay áo một cái tức thì trên trời
sa
xuống
một hanh tinh đỏ lòm to như cái bánh xe và một định tinh trắng
như
bạc cũng to như cái chậu. Tôn Tẩn liền thâu hết cả hai vào tay
áo.
Hôm
sau, vua Ngụy lâm triều rồi mà trời vẫn tối mờ. Vua phán hỏi
quan
Tư thiên vì cớ gì? Quan Tư thiên tâu:
-
Chẳng rõ cớ chi mà đã tới giờ Thìn mặt trời vẫn không mọc, chẳng
những
trong triều mà thôi, cho đến ngoài thành cũng như vậy.
Vua
Ngụy suy nghĩ giây lâu, nghi là trong Nam lao có người bị án
oan
nên trời u ám. Vì vậy vua bèn hạ lịnh ân xá tất cả tù phạm trong
lao
ra
bất kỳ tội nặng nhẹ.
Tôn
Tẩn hay tin tù phạm ở Nam lao đã được ân xá bèn làm phép, rồi
giũ
tay áo, thả hai vầng tinh tú ấy ra. Hai vầng tinh tú ấy chính là
Kim ô
Bạch
thố nghĩa là thể phách của mặt trời, mặt trăng. Cả hai được
buông
ra
liền trở về ngôi cũ. Trời bèn sáng tỏ như thường.
Châu
Hợi được tha ra hoàn chức cũ thì mừng rỡ hối hả về phủ. Lưu
phu
nhân nói:
- Tại
ông không tin lời Tôn Tẩn nên gây họa như vậy. Nếu không có
Tôn
Tẩn gỡ cứu cho ắt ông đã bỏ thây nơi Nam lao rồi.
Châu
Hợi nghe nói ngơ ngẩn giây lâu. Lưu phu nhân đem nguyên do
mà
thuật rõ lại. Châu Hợi nghe dứt cám ơn Tôn Tẩn vô cùng, Lưu phu
nhân
nói:
- Nếu
ông muốn đền ơn Tôn tiên sinh thì phải đem Tôn tiên sinh về
phủ
nuôi dưỡng chớ không chi hơn nữa.
Châu
Hợi nói:
-
Muốn vậy nhưng làm thế nào được?
Phu
nhân nói:
-
Thiếp có một kế là ngày mai chúng ta lo nấu vài thạch cơm, rồi
sai
người
khiêng theo thiếp vào viện Tỵ Điền giả nói rằng lúc ông đau
thiếp
có
cầu nguyện, nếu lành mạnh sẽ bố thí cho người nghèo. Nay ông qua
khỏi
bịnh, thoát khỏi họa nên thiếp đem cơm đi trả lễ. Hễ thiếp vào
được
trong
viện Tỵ Điền, thì sẽ năn nỉ Tôn tiên sinh về phủ nuôi dưỡng mà
đáp
ơn.
Châu
Hợi nghe vợ nói khen ngợi vô cùng. Ngày hôm sau sắp sửa cơm
canh
xong. Lưu phu nhân bảo gia nhân khiêng thạch cơm theo mình vào
viện
Tỵ Điền phân phát cho đám ăn mày. Phân phát xong, phu nhân bèn
tới
ra mắt Tôn Tẩn tỏ hết ý của vợ chồng mình. Tôn Tẩn nghe dứt nói
rằng:
-
Không được! Hôm nay tôi chưa lìa bỏ chỗ này mà đi đâu cả. Nếu
Châu
đại nhân có lòng tốt, thì tới ngày Mậu Ngọ tháng sau tới tại
miễu
Ngô
Khởi mà đón tôi, nhưng cũng phải giữ kín miệng đừng cho ai hay
mà
mắc
họa. Tới ngày ấy, Bàng Quyên sẽ đốt Tỵ Điền viện mà giết tôi.
Tôi
chờ y
đốt viện rồi tôi mới đi thì được yên sự, vì nó ngỡ là tôi chết
cháy,
ắt
không tìm hỏi đâu nữa. Thôi, lời tôi dặn đã cặn kẽ, phu nhân hãy
nhớ
và
giữ kín giùm!
Lưu
phu nhân nghe dứt, gật đầu từ tạ Tôn Tẩn rồi trở về phủ nói rõ
lại
cho Châu Hợi hay.
Ngày
giờ mau như thoi đưa, lật bật mà đã đến ngày Mậu Ngọ. Châu
Hợi y
hẹn đem gia đồng lén tới miễu Ngô Khởi mà chờ.
Tôn
Tẩn ở trong
viện Tỵ Điền làm phép mù trời tối đất rồi chống gậy trầm hương
ra miễu
ấy.
Châu Hợi thấy Tôn Tẩn tới bèn hối đi với mình về phủ. Tôn Tẩn
nói:
-
Chưa đi vội được. Hãy chờ một lát nữa Bàng Quyên phóng lửa đốt
viện rồi sẽ đi.
Thật như lời, tới canh hai, Bàng Quyên và lũ bộ hạ mang cỏ khô,
củi,
bổi và dầu tới. Chúng nó đóng cửa viện lại, chất các món nhạy
giáp vòng
rồi đánh lửa lên đốt. Ôi, trong giây lát tòa viện Tỵ Điền trở
nên đống
than đỏ, hơn ngàn kẻ ăn mày đã thành ra ma! Tôn Tẩn thấy lửa
cháy rồi,
bèn cùng bọn Châu Hợi đi về phủ. Bàng Quyên kể chắc Tôn Tẩn đã
chết
thiêu nên cũng yên lòng.
Sáng ngày vua Ngụy ra triều, các quan đem việc cháy việc Tỵ Điền
mà
tâu. Vua thở ra rồi hỏi:
-
Vì sao trong viện Tỵ Điền lại có cuộc lửa cháy hại nhiều sanh
linh
như vậy?
Bàng Quyên tâu:
-
Ấy là mưu của Tôn Tẩn. Y muốn trốn ra khỏi nước Ngụy nên đốt
viện giả là mình đã chết cháy cho khỏi bị tập nã. Nay không nên
lầm
mưu của y. Bệ hạ nên hạ lịnh họa đồ hình Tôn Tẩn treo khắp các
cửa
thành để xét bắt cho kỳ được.
Ngụy vương nghe tâu khen phải, lập tức hạ lịnh họa đồ hình Tôn
Tẩn
sai đi tầm nã.
Nói lại Vương Ngao đi hiểu dụ bốn nước rồi đều không ai cứu được
Tôn Tẩn. Bây giờ ông ta lại sang nước Yên. Bữa nọ, nhầm buổi
chầu,
Vương Ngao tới trước cửa triều nước Yên khóc ba tiếng, rồi cười
ba
tiếng, các quan lấy làm lạ vào tâu cho vua Yên hay. Vua Yên cho
vời
vào hỏi. Vương Ngao tâu rằng:
-
Bần đạo khóc là khóc người công tử thứ ba của phò mã Tôn Tháo,
tên
là Tôn Tẩn. Người này có công lên núi Vân Mộng học đạo với Quỷ
Cốc
đã thông thiên thơ biết độn pháp, giỏi linh văn. Ngụy chúa nghe
danh,
sai sứ lên rước ba phen mới được. Chẳng dè Tôn Tẩn xuống giúp
Ngụy
bị người bạn bất lương là Bàng Quyên sàm tấu đến nỗi bị chặt hết
mười
ngón chân, nay còn đương bị giam ở Ngụy. Còn bần đạo cười là
cười
các nước chư hầu không ai biết trang anh tuấn để lo phương cứu
về
giúp
xã tắc, định giang san, và thống nhất thiên hạ.
Vua
Yên nghe dứt cả mừng phán:
- Nếu
không có tiên sinh chỉ bảo thì quả nhân đâu rõ ở đời có bậc ký
tài
ấy.
Phán
rồi dạy thị thần mời Vương Ngao ra Quan lại Tư thết đãi. Đoạn
hỏi
các quan coi ai dám qua Ngụy rước Tôn Tẩn về. Vua hỏi vừa dứt
thì
có
một vị đại quan bước ra trước điện xin đi. |