Bấy giờ Tống Giang báo với các đầu lĩnh rằng
:
- Lũ anh em ta bấy lâu vào sinh ra tử mong mỏi tìm nhau, để kết
lấy giang hồ đại nghĩa, vậy ngày nay đã xum họp được một trăm lẻ
tám vị anh hùng, trí dũng kiêm toàn anh tài không thiếu, thực là
một cơ hội rất hiếm xưa nay ai trông thấy thế mà chẳng đồng tâm
hệp lực để cùng liên lạc với nhau. Duy trong khi gây cuộc binh
đao kể cũng thiệt hại đến nhiều dân chúng, vậy ngày nay muốn lập
đàn trai để tạ ơn trời đất quỷ thần, một là cầu đảo cho anh em
được vui vẻ yên lành, hai là muốn cho triều mau ra ơn sá tội để
cùng hau hết sức báo đền non nước thì dẫu chết cũng không dám từ
nan, ba là cầu cho Tiều Thiên Vương sớm thăng thiên giới thế thế
sinh sinh, rồi sau được gặp nhau và nhân tiện cầu cho các linh
hồn bị chết chóc từ trước tới nay đều được siêu sinh tĩnh thổ về
chốn lạc viên... Chẳng hay ý tưởng các anh em nghĩ ra sao ?
Các đầu lĩnh nghe nói đều đáp rằng :
- Đó là một công quả phúc đức anh em đều xin theo ý Ca ca chỉ
giáo.
Ngô Dụng nói :
- Việc này tất phải nhờ Công Tôn Thắng tiên sinh làm chủ, rồi
cho người đi đón các đạo sĩ khắp nơi để về cúng mới được.
Nói đoạn liền bàn định đến ngày rằm tháng tư làm chay hạn định
bảy ngày đêm công quả, cho các người đi đón các đạo trâng về
cúng và sai người mua sắm lễ vật cùng bày dọn đạo tràng. Trước
Trung Nghĩa đường dựng cây phán lớn bốn xung quanh kết ba từng
đài rất cao trong bày Thánh Trượng Tam Thanh, Thất Bảo hai ban
đặt thờ hai mươi lăm vị tinh tú, mười hai ngôi sao giờ cùng các
tinh chủ trên trời, ra bên ngoài đặt giám thờ thần tướng Thôi,
Lư, Đặng, Đậu.
Hôm ấy khí trời trong trẻo gió mát trăng thanh đàn tràng đã lập
xong rồi, Công Tôn Thắng liền dẫn bốn mươi tám người đạo tràng
ra làm lễ, bấy giờ Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa đứng đầu rồi đến
Ngô Dụng cùng các đầu lĩnh ra đốt hương coi lễ. Công Tôn Thắng
giữ việc đàn tràng coi giữ các giấy sớ ấn bùa và cùng với bốn
mươi tám người đạo tràng cùng nhau mỗi ngày ra làm ba khoá lễ.
Tống Giang nhất tâm cầu nguyện mong Hoáng thiên báo ứng hiển
nhiên liền bảo Công Tôn Thắng đốt sớ tâu lên thượng đế. Đến đêm
hôm thứ bảy Công Tôn Thắng ở trên tầng đàn Hư Hoàng thứ nhất các
đạo tràng ở tầng thứ hai Tống Giang cùng các đầu lĩnh ở tầng thứ
ba còn các tiểu đầu lĩnh cùng bọn tướng tá đều đứng cả dưới đàn
mà cùng nhau vái lạy trời xanh cầu xem báo ứng.
Được một lát vào khoảng canh ba chợt nghe thấy trên trời có một
tiếng soạt rất to như tiếng xé lụa rồi thấy cửa trời về phía Tây
Bắc kiều phương mở tung ra rồi thấy một cái bàn vàng hai đầu nhỏ
ở giữa rộng trông như mặt trời chói lọi sáng rực xuốn khắp trần
ai. Chợt lại thấy ở trong đàn có một cái khối lửa to như cái
thúng lừ đừ đi xuống đàn Hư Hoàng quanh chuyển một vòng rồi lặn
xuống đất về phía chính Nam. Đoạn rồi mặt trời lại trở lại như
cũ mọi người đều lạy tạ xuống đàn mà đào đất để tìm. Khi đào tới
ba thước đất chợt thấy có một miếng bia đá chạm Thiên thư ở mặt
giữa và cả đôi bên. Tống Giang sai đem về làm lễ tạ đàn rồi sáng
hôm sau đưa tiền công quả để tặng cho các đạo tràng và đem bia
đá ra xem.
Khi nom đến bia đá thấy chữ nghĩa ngoằn ngoèo khác hẳn chữ nghĩa
thường không còn ai biết nghĩa lý ra sao cả, sau có một người
đạo tràng họ Hà tên là Diệu Thông nói với Tống Giang rằng :
- Tổ phụ nhà tôi khi xưa có một bộ sách chuyên để cắt nghĩa các
lối chữ Thiên thư, vậy lối chữ đây tức là lối chữ khoa dẫu tôi
có thể hiểu được xin để cho tôi dịch giúp.
Tống Giang nghe nói cả mừng liền nhờ Hà Diệu Thông xem giúp và
dịch cho mọi người cùng hiểu nghĩa, Hà Diệu Thông xem một lúc
rồi nói với Tống Giang rằng :
- Hai bên cạnh bia một bên có chữ '' Thế Thiên Hành Đạo '' (
thay trời làm đạo ) và một bên có bốn chữ '' Trung Nghĩa Lưỡng
Toàn '' ( trung nghĩa vẹn hai ) trên có các vị sao trên trời và
ở dưới chứa đủ tên họ các ngài ở đó. Nếu các ngài rộng tha phép
cho tôi xin viết rõ để cho các ngài xem.
- Chúng tôi mê muội không biết văn trời nay nếu được đạo sĩ chỉ
đạo đường mê thì còn gì hơn nữa, dám xin đạo sĩ hết lòng chỉ bảo
rõ ràng cho biết hoặc giả ở trong có điều chi Hoàng thiên quở
phạt cũng xin chớ giấu chúng tôi.
Nói đoạn liền gọi Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng lấy giấy vàng
mực đen ra để Hà Diệu Thông đọc cho viết. Hà Diệu Thông lại nói
rằng :
- Trong tấm bia này trước mặt có ba mươi sáu hàng chữ toàn thị
là sao Thiên Cương, mặt sau có bảy mươi hai hàng chữ toàn thị là
sao Địa Sát phía dưới có chứa tên họ các nghĩa sĩ ở đây cả.
Nói đoạn liền đọc ba mươi sáu hàng chữ ở trước mặt bia :
Thiên Khôi Tinh - Hổ Bảo Nghĩa Tống Giang
Thiên Cương Tinh - Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa
Thiên Cơ Tinh - Trí Đa Tinh Ngô Dụng
Thiên Nhân Tinh - Nhập Long Vân Công Tôn Thắng
Thiên Dũng Tinh - Đại Đao Quan Thắng
Thiên Hùng Tinh - Báo Tử Đầu Lâm Xung
Thiên Mãnh Tinh - Tích Lịch Hoả Tần Minh
Thiên Uy Tinh - Song Chiên Hồ Duyên Chước
Thiên Anh Tinh - Tiểu Lý Quảng Hoa Vinh
Thiên Quý Tinh - Tiểu Toàn Phong Sài Tiến
Thiên Phú Tinh - Phát Thiên Bằng Lý Ứng
Thiên Mãn Tinh - Mỹ Nhiêm Công Chu Đồng
Thiên Cô Tinh - Hoa Hoà Thượng Lỗ Trí Thâm
Thiên Thương Tinh - Hành Giả Võ Tòng
Thiên Lập Tinh - Song Thương Tướng Đổng Bình
Thiên Tiệp Tinh - Một Vũ Tiễn Trương Thanh
Thiên Âm Tinh - Thanh Diện Thủ Dương Chí
Thiên Hữu Tinh - Kim Sang Thủ Từ Ninh
Thiên Không Tinh - Cấp Tiên Phong Sách Siêu
Thiên Dị Tinh - Xích Phát Quỷ Lưu Đường
Thiên Sát Tinh - Hắc Toà Phong Lý Quỳ
Thiên Tốc Tinh - Thần Hành Thái Bảo Đới Tung
Thiên Vị Tinh - Sử Văn Long Sử Tiến
Thiên Cứu Tinh - Mộc Giả Lan Mục Hoằng
Thiên Thoái Tinh - Sáp Sỉ Hổ Lôi Hoành
Thiên Thọ Tinh - Hỗn Giang Long Lý Tuấn
Thiên Kiếm Tinh - Lập Địa Thái Tuế Nguyễn Tiểu Nhị
Thiên Bình Tinh - Thuyền Đẩu Hoả Trương Hoành
Thiên Tội Tinh - Đoản Mệnh Nhị Lang Nguyễn Tiểu Ngũ
Thiên Tổn Tinh - Lăng Lý Bạch Điều Trương Thuận
Thiên Đại Tinh - Hoạt Diêm La Nguyễn Tiểu Thất
Thiên Lao Tinh - Bệnh Quan Sách Dương Hùng
Thiên Tuệ Tinh - Biển Mệnh Tham Quan Thạch Tú
Thiên Bảo Tinh - Lưỡng Đầu Xà Giải Trân
Thiên Khốc Tinh - Long Vi Hạt Giải Bảo
Thiên Xảo Tinh - Lãng Tử Yến Thanh
Bảy mươi hai hàng chữ mặt sau bia :
Địa Khôi Tinh - Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ
Địa Sát Tinh - Trấn Tam Sơn Hoàng Tín
Địa Dũng Tinh - Bệnh Uý Tri Tôn Lập
Địa Kiệt Tinh - Xú Quân Mã Tuyên Tân
Địa Hùng Tinh - Mộc Tỉnh Can Hắc Tư Văn
Địa Uy Tinh - Bách Thắng Tướng Hàn Thao
Địa Anh Tinh - Thiên Mục Tướng Bành Dĩ
Địa Kỳ Tinh - Thánh Thuỷ Tướng Quân Đan Đình Khuê
Địa Mãnh Tinh - Thần Hoả Tướng Quân Nguỵ Định Quốc
Địa Văn Tinh - Thánh Thủ Thư Sinh Tiêu Nhượng
Địa Chính Tinh - Thiết Diện Khổng Mục Bùi Tuyên
Địa Tịch Tinh - Ma Vân Kim Si Âu Bằng
Địa hạp Tinh - Hoả Nhỡ Tâon Nghê Đặng Phi
Địa Cường Tinh - Cẩm Mao Hổ Yến Thuận
Địa Âm Tinh - Cẩm Báo Tử Dương Lâm
Địa Phụ Tinh - Oanh Thiên Lôi Lăng Chấn
Địa Hội Tinh - Thần Toán Tử Tưởng Kính
Địa Tá Tinh - Tiểu Ôn Hầu Lã Phương
Địa Hựu Tinh - Kiển Nhân Quý Quách Thịnh
Đị Linh Tinh - Thần Y An Đạo Toàn
Địa Thú Tinh - Tử Nhiêm Bá Hoàng Phủ Đoan
Địa Vi Tinh - Nuỵ Cước Hổ Vương Anh
Địa Tuệ Tinh - Nhất Trượng Thanh Hồ Tam Nương
Địa Hao Tinh - Táng Môn Thần Đào Húc
Địa Mặc Tinh - Hỗn Thế Ma Vương Phàn Thuỵ
Địa Xương Tinh - Mao Đẩu Tinh Khổng Minh
Địa Cường Tinh - Độc Hoả Tinh Khổng Lượng
Địa Phi Tinh - Bát Tý Na Tra Hạng Sung
Địa Tẩu Tinh - Phi Thiên Đại Thánh Lý Cổn
Địa Xảo Tinh - Ngọc Tý Tượng Kim Đại Kiện
Địa Minh Tinh - Thiết Dịch Tiên Mã Lân
Địa Tiến Tinh - Xuất Động Giao Đồng Uy
Địa Thoái Tinh - Phan Giang Thần Đồng Mãnh
Địa Mãn Tinh - Ngọc Phạn Cang Mạnh Khang
Địa Toại Tinh - Thông Tý Viện Hầu Kiện
Địa Chu Tinh - Khiến Giản Hổ Trần Đạt
Địa Ẩn Tinh - Bạch Hoa Xá Dương Xuân
Địa Di Tinh - Bạch Diện Lang Quân Trịnh Thiên Thọ
Địa Lý Tinh - Cửu Vy Quy Đảo Tôn Vượng
Địa Tuấn Tinh - Thiết Phiến Tử Tống Thanh
Địa Nhạc Tinh - Thiết Khiếu Tử Nhạc Hoà
Địa Tiệp Tinh - Hoa Hạng Hổ Cung Vượng
Địa Tốc Tinh - Tùng Tiến Hổ Đinh Đắc Tôn
Địa Trấn Tinh - Tiểu Già Lan Mục Xuân
Địa cơ Tinh - Thao Đạo Quỷ Tào Chính
Địa Ma Tinh - Vạn Lý Ma Vương Tống Vạn
Địa Yêu Tinh - Mô Trước Thiên Đỗ Thiên
Địa U Tinh - Bệnh Đại Trùng Tiết Vinh
Địa Phục Tinh - Kim Nhỡn Bưu Thi Ân
Địa Tịch Tinh - Đả Hổ Tướng Lý Trung
Địa Không Tinh - Tiểu Bá Vương Chu Thông
Địa Cô Tinh - Kim Tiền Báo Tử Thang Long
Địa Toàn Tinh - Quỷ Kiểm Nhi Đỗ Hưng
Địa Đoản Tinh - Xuất Lâm Long Trâu Uyên
D09ịa Giốc Tinh - Độc Giốc Long Trâu Nhuận
Địa Tú Tinh - Hãn Địa Hốt Luật Chu Quý
Địa Tàng Tinh - Tiểu Diện Hổ Chu Phú
Địa Binh Tinh - Thiết Tý Phụ Xái Phúc
Địa Tổn Tinh - Nhất chỉ Xoa Xái Khánh
Địa Nô Tinh - Thôi Mệnh Phán Quan Lý Lập
Địa Sát Tinh - Thanh Nhỡn Hổ Lý Lân
Địa Ác Tinh - Một Diện Mục Tiêu Đỉnh
Địa Xú Tinh - Thạch Tướng Quân Thạch Dũng
Địa Số Tinh - Tiểu Uý Tri Tôn Tân
Địa Âm Tinh - Mẫu Đái Trùng Cố Đại Tẩu
Địa Hình Tinh - Thái Viên Tử Trương Thanh
Địa Tráng Tinh - Mẫu Dạ Xoa Tôn Nhị Nương
Địa Liệt Tinh - Hoạt Diện Diêm La Dinh Lục
Địa Kiện Tinh - Hiểm Đạo Thần Úc Bảo Tứ
Địa Hao Tinh - Bạch Nhật Thử Bạch Thắng
Địa Tặc Tinh - Cổ Nhượng Tao Thời Thiên
Địa Cẩu Tinh - Kim Mao Khuyển Đoàn Cảnh Trụ
Tiêu Nhượng viết xong tất cả rồi đọc lại một lượt cho mọi người
nghe ai nấy đều kinh ngạc vô cùng. Tống Giang liền nói với các
đầu lĩnh rằng :
- Tôi là kẻ tiểu lại ngu hèn ngờ đâu lại ứng vào các tinh tú
trên trời cùng với anh em lại cùng chung một hội... Nay số trời
đã định tất phải sum họp cùng nhau vậy nay các anh em phải y
theo thứ tự giữ lấy bổn phận mà làm chớ nên trái với ý trời mới
được.
Các đầu lĩnh nghe nói đều đáp rằng :
- Ý trời đã định còn ai dám cãi, từ nay đều xin mhất lực nhất
tâm..
Tống Giang sai lấy năm mươi lạng vàng tạ ơn Hà Diệu Thông, Hà
Diệu Thông bái tạ Tống Giang cùng các đầu lĩnh rồi cùng với bọn
đạo tràng xuống núi mà chia tay trở về. Bấy giờ Tống Giang bàn
với Ngô Dụng cùng với bọn đầu lĩnh mà chỉnh đốn trong lại sơn
trại ; trước Trung Nghĩa Đường khắc một cái biển vàng đề ba chữ
'' Trung Nghĩa Đường '' rất to. Đọan kim đình cũng thay một bức
biển lớn, phía trước đặt ba cửa quan phái sau Trumg Nghĩa Đường
đặt một toà nhạn đài, đỉnh núi đặt một đải sảnh, Pphía Dông phía
Tây đều có ngăn phòng. Chính giữa đặt một bàn thờ Tiều Cái.
Tống Giang, Ngô Dụng, Lã Phương, Quách Thịnh ở phòng bên Đ6ong ;
Lư Tâún Nghĩa, Công Tôn Thắng, Khổng Minh, Khổng Lượng ở phòng
bên Tây. Lớp núi thứ hai có Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tiêu
Nhượng, Bùi Tuyên ở phòng bên tả ; và Dới Tung, Yến Thanh,
Trương Thanh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ Đoan ở phòng bên hữu. Bên
tả Trung Nghĩa Đường có Sái Tiến, Lý Ứng, Tưởng Kính, Lăng Chấn
coi giữ việc thu phát tiền lương kho tàng và bên hữu có Hoa
Vinh, Phàn Thuỵ, Hạng Sung, Lý Cổn. Cửa Nam đệ nhất đường bên
Nam trước núi cắt Giải Trân, Giải Bảo coi giữ ; cửa quan thứ nhì
có Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng coi giữ ; cửa quan thứ ba Chu Đồng, Lôi
Hoành coi giữ. Bên Đông núi có một cửa quan Sử Tiến, Lưu Đường
coi giữ ; bên Tây một cửa quan Dương Hùng, Thạch Tú coi giữ ;
bên Bắc một cửa quan Mục Hoằng, Lý Quỳ coi giữ. Ngoài sáu cửa
quan lại đặt thêm tám trại bốn trại trên bộ và bốn trại dưới
nước. Trại bộ chính Nam có Tần Minh, Sách Siêu, Âu Bằng, Đặng
Phi ; trại chính Đông có Quan Thắng, Từ Ninh, Tuyên Tân, Hắc Tư
Văn ; trại chính Tây có Lâm Xung, Đổng Bình, Đan Đình Khuê, Nguỵ
Định Quốc ; trại chính Bắc có Hồ Duyên Chước, Hàn Thao, Bành Dĩ,
Dương Chí ; trại thuỷ bên Đông có Lý Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị ;
trại Tây Nam có Trương Hoành, Trương Thuận ; trại Đông Bắc có
Nguyễn Tiểu Ngũ, Đồng Uy ; trạitrại Tây Bắc có Nguyễn Tiểu Thất,
Dồng Mãnh ; còn các đầu lĩnh ai vào việc nấy.
Lại sai Hầu Kiện chế thêm các hiệu cờ khác nhau, trên núi chế
một ngọn cờ Hoàng Hạnh viết bốn chữ '' Thế Thiên Hành Đạo '' rất
to ; trước Trung Nghĩa Đường có hai lá cờ thêu một bên có năm
chữ '' Sơn Đông Hổ Bảo Nghĩa '' và một bên năm chữ '' Hà Bắc
Ngọc Kỳ Lân ''. Ngoài đặt các cờ Phi Long, Phi Hổ, Phi Báo,
Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Huyền Vũ và các đồ Hoàng Việt,
Bạch Mao, Thanh Phan, Tạo Cái, Phi Anh để dùng ra trận.Lại sai
chế các thứ cờ Tứ Đầu, Ngũ Phương, Tam Tài, Cửu Diệu, Nhị Thập
Bát Tú, Lục Thập Tứ Quái, Chu Thiên Cửu Cung Bát Quái và tất cả
một trăm hai mươi bốn thứ cờ. Còn các việc ấn tín binh phù thì
giao cho Kim Đại Kiện coi giữ. Đoạn rồi chọn ngày lành thàng tốt
giết trâu giết ngựa tế lễ trời đất quỷ thần treo biển lên Trung
Nghĩa Đường, Đoạn Kim Đình và treo cờ '' Thế Thiên Hành Đạo ''
lên đỉnh núi, rồi cùng nhau yến ẩm làm vui. Hôm đó Tống Giang
tay cầm binh phù ấn tín tuyên cáo hiệu lệnh cho các đầu lĩnh
rằng :
- Từ nay anh em ta đều phải giữ theo chức trách không được cưỡng
trái để hại đến Đại Nghĩa trong trại, nếu ai trái lệnh không
theo thì lấy quân pháp trị tội...
Nói đoạn liền kê các chức vụ cho các đầu lĩnh được biết, hai
viên tổng binh đầu lĩnh ở Lương Bạc là Tống Giang và Lư Tuấn
Nghĩa, hai viên quân sư là Ngô Dụng, Công Tôn Thắng coi việc cơ
mật, một viên tham tán quân vụ là Thần Cơ Quân Sư Chu Vũ, hai
viên đầu lĩnh coi việc tiền lương là Sài Tiến, Lý Ứng ; năm viên
hổ tướng mã quân là Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hồ Duyên
Chước, Đổng Bình ; tám viên mã quân đại khiêu kỵ kiêm chức tiên
phong sứ là Hoa Vinh, Từ Ninh, Sách Siêu, Dương Chí, Trương
Thanh, Chu Đồng, Sử Tiến và Mục Hoằng ; mười sáu viên mã quân
tiểu bưu tướng kiêm việc thám tiễu là Hoàng Tín, Tôn Lập. Tuyên
Tân, Hắc Tư Văn, Hàn Thao, Bành Dĩ, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định
Quốc, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Mã Lân, Trần Đạt, Dương
Xuân, Dương Lâm, Chu Thông ; mười viên bộ quân đầu lĩnh là Lỗ
Trí Thâm, Võ Tòng, Lưu Đường, Lôi Hoành, Lý Quỳ, Yến Thanh,
Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải Bảo ; mười bảy viên tướng
hiệu bộ quân là Phàn Thuỵ, Hạng Sung, Lý Cổn, Tiết Vĩnh, Thi ân,
Mục Xuân, Lý Trung, Trịnh Thiên Thọ, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Trâu
Uyên, Trâu Nhuận, Cung Vượng, Đinh Đắc Tôn, Tiêu Đĩnh và Thạch
Dũng. Tám viên đầu lĩnh thuỷ quân là Lý Tuấn, Trương Hoành,
Trương Thuận, Nguyễn Tiểu Nhị, Nguyễn Tiểu Ngũ, Nguyễn Tiểu
Thất, Đồng Uy và Đồng Mãnh. Tám viên đầu lĩnh coi bốn mặt tửu
điếm để dò xét tin tức ; điếm bên Dông có Tôn Tân và Cố Đại Tẩu
; bên Tây có Trương Thanh và Tôn Nhị Nương ; bên Nam có có Chu
Quý và Đỗ Hưng ; bên Bắc có Lý Lập và Vương Đình Lục. Một viên
coi đại quyền về dò thám là Thần Hành Thái Bảo Đới Tung. Tám
viên đầu lĩnh bộ quân phi báo các việc cơ mật là Nhạc Hoà, Thời
Thiên, Đoàn Cảnh Trụ, Bách Thắng ; hai viên kiều tướng mã quân
thủ hộ ở Trung Quân là Lã Phương, Quách Thịnh ; hai viên kiều
tướng bộ quân thủ hộ ở Trung Quân là Khổng Minh, Khổng Lượng ;
hai viên chuyên việc hành binh là Xái Phúc, Xái Khánh ; hai viên
đầu lĩnh mã quân giữ việc dò thám trong tam quân là Vương Anh và
Hổ Tam Nương ; mười sáu viên đầu lĩnh coi việc chế tạo sửa sang,
một viên đầu lĩnh coi việc văn thư giấy má trong khi khiển tướng
điều binh là Tiêu Nhượng ; một viên Quân chính tư coi việc
thưởng phạt là Bùi Tuyên ; một viên coi việc tính toán tiền
nong, chế tạo chiến thuyền là Mạnh Khang ; một viên chuyên chế
tạo ấn tín là Kim Đại Kiện ; một viên chế tạo các thứ cờ quạt áo
bào là Hầu Hiệu. Một viên coi việc chữa thuốc cho ngựa là Hoàng
Phủ Đoan ; một viên chuyên trị các khoa thuốc là An Đạo Toàn.
Một viên coi việc chế tạo các đồ quân khí bằng sắt là Thang Long
; một viên chế các thứ súng là Lăng Chấn ; một viên coi các việc
nhà là Lý Vân ; một viên coi việc giết mổ trâu bò lợn gà là Tào
Chính ; một viên coi việc yến tiệc là Tống Thanh ; một viên coi
việc rượu chè là Chu Quý ; một viên coi đắp thành trì là Đào Tôn
Vượng ; một viên coi giữ cờ suý là Úc Bảo Tứ.
Hôm đó ngày hai mươi hai tháng tư năm thứ hai niên hiệu Tuyên
Hoà Tống Công Minh họp hết thảy các đầu lĩnh ở Lương Sơn Bạc để
truyền lệnh cắt đặt công việc, các đầu lĩnh đều vâng lệnh nhận
ấn tín rồi cùng nhau yến ẩm ở Trung Nghĩa Đường rồi quay ra chia
giữ các việc, trong đó có người nào chưa cắt định công việc thì
cho ở tạm tại trước Nhạn đài để chờ hiệu lệnh. Ngày hôm sau Tống
Giang lại sai khua trống tụ họp các đầu lĩnh tại Trung Nghĩa
Đường đốt một lò hương rồi nói với mọi người rằng :
- Anh em ta ngày nay xum họp ở đây là tại số trời định trước
chiếu ứng bởi các vì sao, vậy nay ta nên một lòng mà thề cùng
trời đất trăm năm sinh tử có nhau, thì mới ngõ hầu khỏi phụ ý
trời trọng đãi, các anh em xin chớ sai lời.
Chúng nghe nói đều vui mừng khen phải rồi cùng nhau thắp hương
và cùng nhau quỳ ở trước Trung Nghĩa Đường để tuyên lời thề
nguyện. Tống Giang quỳ ở hàng đầu mà tuyên lời thề rằng :
'' Ngày hai mươi ba tháng tư năm thứ hai niên hiệu Tuyên Hoà bọn
nghĩa sĩ ở Lương Sơn bạc là : Tống Giang, Lư Tuấn Nghĩa, Công
Tôn Thắng, Ngô Dụng, Quan Thắng, Lâm Xung, Tần Minh, Hồ Duyên
Chước, Hoa Vinh, Sài Tiến, Lý Ứng, Chu Đồng, Lỗ Trí Thâm, Võ
Tòng, Đổng Bình, Trương Thanh, Dương Chí, Từ Ninh, Sách Siêu,
Đới Tung, Lưu Đường, Lý Quỳ, Sử Tiến, Mục Hoằng, Lôi Hoành, Lý
Tuấn, Nguyễn Tiểu Nhị, Trương Hoành, Nguyễn Tiểu Ngũ, Trương
Thuận, Nguyễn Tiểu Thất, Dương Hùng, Thạch Tú, Giải Trân, Giải
Bảo, Yến Thanh, Chu Vũ, Hoàng Tín, Tôn Lập, Tuyên Tân, Hắc Tư
Văn, Bành Dĩ, Hàn Thao, Đan Đình Khuê, Nguỵ Định Quốc, Tiêu
Nhượng, Bùi Tuyên, Âu Bằng, Đặng Phi, Yến Thuận, Dương Lâm, Lăng
Chấn, Tưởng Kính, Lã Phương, Quách Thịnh, An Đạo Toàn, Hoàng Phủ
Đoan, Vương Anh, Hổ Tam Nương, Bào Húc, Phàn Thuỵ, Hạng Sung, lý
Cổn, Khổng Minh, Khổng Lượng, Kim Đại Kiện, Mã Lân, Đồng Uy,
Đồng Mãnh, Mạnh Khanh, Hầu Kiện, Trần Đạt, Dương Xuân, Trịnh
Thiên Thọ, Đào Tôn Vượng, Tống Nhạc Hoà, Cung Vượng, Đinh Đắc
Tôn, Mục Xuân, Tào Chính, Tống Vạn, Đỗ Thiên, Tiết Vĩnh, Thi Ân,
Lý Trung, Chu Thông, Thang Long, Đỗ Hưng, Trâu Uyên, Trâu Nhuận,
Chu Quý, Xái Phúc, Xái Khánh, Lý Lập, Lý Vân, Tiêu Đĩnh, Thạch
Dũng, Tôn Tân, Cố Đại Tẩu, Trương Thanh, Tôn Nhị Nương, Vương
Đình Lục, Úc Bảo Tứ, Bạch Thắng, Thời Thiên, Đoàn Cảnh Trụ cùng
nhau dốc lòng thành kính lập lời thề nguyện, xin thần minh soi
xét chứng cho.
Nguyên chúng tôi vốn người bốn bể ay họp một nhà, theo tinh tú
làm anh em lấy đất trời làm cha mẹ. Một trăm tám người tuy khác
mặt song cũng vẻ vang, một trăm tám người tuy khác lòng song
cũng trong sạch. Vui phải cùng vui, lo phải cùng lo ; sống phải
cùng sống, chết phải cùng chết đã liệt tên trên thượng đế chớ để
hổ với dân gian. Một ngày thành tâm khí đã tín trọn kiếp tâm can
không đổi. Nếu ai manh dạ bất nhân bỏ lòng đại nghĩa ngoài hay
trong dở có trước không sau, thì thượng đế soi trên quỷ thần soi
dưới thân tất ra tan vì đao kiếm mà tội còn mang nặng với phong
lôi ; trăm năm không được hưởng thanh bình muôn kiếp còn sa vào
địa ngục.
Đạo trời phân minh báo ứng dám xin soi xét lòng thành...''
Tống Giang đọc xong mọi người vui vẻ mà kêu lên rằng :
- Xin nguyện trăm năm xum họp cùng nhau muôn kếp không hề xa
cách, mối dây liên lạc cũng được như nay...
Nói đoạn đều uống máu ăn thề rồi cùng nhau chè chén đến khi quá
say mới tan.
Miền Thuỷ Bạc, vũng Lương Sơn
Nước bèo gặp gỡ tâm can hẹn hò.
Tài kinh tế, chí giang hồ
Giữa trời dựng một ngọn cờ Nghĩa Trung.
Từ đây thoả chí tang bồng
Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời.
Trăm năm nhắm bạn anh tài
Làm trai cho đáng thân trai mới là...
Đêm hôm đó Lư Tuấn Nghĩa về nằm nghỉ trong trướng, chợt nằm mê
thấy một người cao lớn tay cầm cây bảo cung đến nói với Tuấn
Nghĩa rằng :
- Ta tên là Kê Khang vì vua nhà Đại Tống đến bắt giặc ở đây, vậy
các ngươi mau mau mà tự trói lấy thân đừng để cho ta phải động
đến thêm phiền.
Lư Tuấn Nghĩa nghe nói đùng đùng nổi giận vội cầm đao sấn lên để
chém, bất đồ chàng giơ đao lên thì thấy lưỡi đao đã gãy tự hồi
nào rồi không sao mà chém được, Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy lấy làm
cả kinh vội vàng chạy ra giá đao để chọn lấy thanh khác, chẳng
dè khi ra tới giá đao thì bao nhiêu gươm dáo đao thương đều gãy
mẻ hết một lượt không còn cái dùng được nữa. Khi đó người kia
đuổi dấn đến đằng sau Lư Tuấn Nghĩa luống cuống không biết làm
thế nào liền giơ tay phải lên để đánh. Chàng vừa giơ tay lên thì
người kia đã dùng thương đánh cho một cái gãy hẳn cánh tay ngã
lăn xuống đất, đoạn rồi người kia lấy cuộn thừng ở trong lưng ra
trói chặt lấy Lư Tuấn Nghĩa mà dong đi. Được một lát đi đến một
khoảng giữa kê một cái án công có một người ngồi nghiêm chỉnh
trông mặt về phía Nam. Người kia bắt Lư Tuấn Nghĩa vào quỳ ở
trên bãi cỏ trước chốn công đường mà sắp sửa để tra hỏi, chợt
đâu ngoài cửa có tiếng khóc vang trời rồi người kia lại quát lên
rằng :
- Có việc gì cứ cho vào cả đây.
Đoạn rồi thấy một tụi rất đông vừa khóc vừa đi vào trong đó Lư
Tuấn Nghĩa ngửng trông lên thấy cả tụi Lương Sơn Bạc một trăm lẻ
bảy người đều trói tay đi đất mà lướt xướt cũng kéo nhau vào quỳ
ở đó Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy trong lòng lấy làm kinh lạ vô cùng.
Bấy giờ Đoàn Cảnh Trụ quỳ gần Lư Tuấn Nghĩa, Tuấn Nghĩa bèn khẽ
hỏi Cảnh Trụ rằng :
- Cớ làm sao bắt được cả bọn ta đến đây thế ?
Đoàn Cảnh Trụ khẽ nói với Lư Tuấn Nghĩa rằng :
- Tống Ca ca biết Viên ngoại bị bắt không có kế gì cứu được bèn
bàn với quân sư làm khổ nhục kế như thế, để quy phục triều đình
thì mới có thể bảo toàn tính mạng cho Viên Ngoại được.
Cảnh Trụ vừa nói dứt lời thì thấy người ngồi trên vỗ tay xuống
án mà mắng rằng :
- Quân cường tặc kia, bay làm nên tội nghiệp đầy trời mấy phen
triều đình sai quân đến đánh bay còn cự địch với cả quan quân,
ngày nay lại còn giả trá kêu van để mong tránh tội hay sao ? Nếu
tha chúng bay thì còn lấy đâu pháp luật để trị thiên hạ nữa được
? Vả chăng chúng bay là đồ gian tham phản trắc ta không thể nào
tha cho chúng bay được, đám quân binh của ta đâu ?
Nói đoạn liền thấy hai trăm mười sáu người Hình quan ở cạnh vách
đổ ra, cứ hai người dìu một mà đem tất cả bọn Tống Giang một
trăm lẻ tám người ra sân để chém.
Lư Tuấn Nghĩa thấy vậy kinh sợ rụng rời mở mắt ra nom thì thấy
trên công đường một cái bảng đề bốn chữ xanh "THIÊN HẠ THÁI
BÌNH" |