Nhưng Lưa đã lầm,
ông lão đến đúng như lời hẹn. Ông nói với chàng:
"Này ông bạn, đường tới đền thờ của thầy La Cát khá là xa,
chúng ta phải lên đường thực sớm mới có thể trở về cùng ngày
được."
Lưu bảo ông lão ngồi chờ một chút, ehàngvội vàng rửa mặt rồi
phóng ra theo ông taxuống đường ngay. Cả hai leo lên một chiếc
xe Jeep của ông đã mướn sẵn, và ông cũng không quên đưa ngay
biên lai thuê xe và mướn tài xế cho Lưu. Chàng mau mắn móc túi
trả tiền mướn xe liền, cũng chẳng có bao nhiêu, chỉ vài chục
đô.
Chiếc xe lăn bánh ra khỏi thành phố, hướng về vuong quê Rồi
phóng vù vù về những làng hẻo lánh.
Sau sáu tiếng đồng hồ vất vả. Ông lão chỉ cho người tài xế lái
xe vào một làng thực nhỏ, cheo leo bên sưừn đồi. Lưu thấy ông
lão và người tài xếnói chuyện với nhau hình như gay cấn lắm,
nhưng chàng không hiểu gì vì họ nói bằng tiếng Thái. Sau cùng
người tài xếcho xe chạy lên đồi, nhưng anh tanhất định không
chịu vào làng. Anh ta muốn ngồi lại trên xe chờ, chứ không
chịu theo hai ngllời. Lưu
lấy làm lạ hỏi ông lão tại Bao anh ta lại chịungồi dưới ánh
nắng cháy da như vậy mà không đi theo vô làng có phải dễ chịu
hơn không. óng lão mỉm cười, nói:
"Xin ông đừng bận tâm. Cái thứ nhát gan này mà dám làm cái gì
chứ."
Ông lão dắt Lưu men theo một con đường nhỏ vô làng. Nhà cửa ở
đây chẳng có cái nào ra hồn, toàn là những lều tranh lụp sụp.
Ông lão dẫn chàng đi quanh co một hồi, cuối cùng tới trước một
ngôi đền. Cánh cửa đền sơn mầu đỏ sậm. Trên cửa có những hàng
chữ Thái trông như vẽ bùa. Ông lão gõ cửa. Một người đàn ông
trông như một bộ xương, cao lênh khênh, nước da đen xậm, ra mở
cửa.
Ông lão ghé sát miệng vô tai người này thì thầm một lúc Người
đàn ông vừa liếc mắt nhìn Lưu, vừa nhìn vào bên trong đền rồi
lắc đầu. Ông lão quay qua bảo chàng:
"Ngài La Cát đang bế quan. Đây là đệ tử của ngài tên Song Ba.
Ngài La Cát đã cảnh cáo các đệ tử không được đưa Ma Ngải cho
người lạ."
Lưu nhớ ngay tới nhữngngày theo cô bé chơi bời ở khu San
Francisco, đi thỉnh bùa phép nạo tiền khách làngchơi. Chàng
còn lạ gì những người luyện bùa, nuôi ma, dù cho có giữ vững
môn qui tới đâu, trong đám đệ tử thếnào cũng éo đứa ham tiền
làm bậy. Cùng lúc ấy, hình ảnh tên Phú và Tú Quyên hiện rõ
trong đầu ehàng nên không còn suy nghĩ gì nữa. Lưu móc ra hai
ngàn đô la trao cho tên Song Ba. Cặp mắt của y mở thực to,
miệng há hốc tới sững sờ. Hiển nhiên một người nhưy ở nơi hẻo
lánh này, chưa chắc cả đời đã nhìn thấy một số tiền nhiều như
vậy. Y nuốt nước miếng ừng ực, chụp vội số tilìn, trông trước
nhìn sau và
chạy một hơi vô trong dền như gió. Lưu định bước theo. Ông lão
cản lại, nói:
"Ông không nên vào trong đó, cứ đợi y sẽ trở ra bây Chỉ vài
phút sau, Song Ba đã trở ra với dáng điệu thực hấp tấp và hồi
hộp. Y thở hổn hển thấy rõ và cặp mắt cũng thật láo liên. Đưa
cho ông lão một cái vỏ sò thật lớn và một bụi ngải. Y nói một
hồi, sau cùng đưa cho Lưu một miếng giấy có viết mấy chữ. Ông
lão bảo chàng:
"Song Ba nói đó là thần chú luyện Ma Ngải. óng hãy cất đi về
nhà nhờ người phiên âm ra mà học thuộc lòng, rồi đốt mà uống.
Khi nào kêu Ma Ngải về ăn thì phải đọc thần chú này mới có
linh hiệu. Chỉ cần ba mươi sáu ngày là ông trả được thù."
Chờ cho ông lão nói với Lưa xong, Song Ba cúi đầu, chắp tay
trước ngưc chào chàng, tỏ ý cám ơn rồi vội vàng đóng cửa lại
ngay.
Ông lão trao cho Lưu chiếc vỏ sò, nói:
"Đây là Ma Ngải, ông hãy trích máu tươi ở ngực nơi trái tim
cho nó uống trong ba ngày đầu. Nó sẽ trở thành một con ma nữ.
Phải nhớ là chích máu ở ngực ông và vào đúng mười hai giờ đêm.
Ba mươi ngày tiếp theo sau, cho nó uống máu ở đâu cũng được,
nhưng theo kinh nghiệm của tôi, eứ cắt máu ở ngón tay ra cho
nó uống là tiện nhất. Vì lúc đó nó cũng cứng cáp rồi." Nói
xong, ông đưa cao bụi ngải cầm ở tay trái, nói:
“Còn đây là cây ngải mà con ma phải ẩn ở trong đó. Loại ngải
này tôi e khó sống ở khí hậu bên Mỹ. Tốt nhất ông nên luyện ở
đây. Tôi có thể mướn nhà cho ông, chỉ trên dưới một trăm đô la
một tháng là cùng. Trong vòng hai tháng, ông có dư thì giờ
nuôi Ma Ngải rồi. Lúc ấy lo gì không trả được thù."
Lưu ôm cả bụi ngải và chiếc vỏ sò có con Ma Ngải trong đó Trên
đườngvề khách sạn, Lưu mau mắn trả nốt sốtiền năm chục đô la
còn lại cho ông lão và tính mở chiếc vỏ sò ra coi. Ông lão cản
chàng lại, nói:
"Không thể mở vỏ sò ra bây giờ được. Bởi vì trong đó có một
cái trứng Ma Ngải. Mở yỏ sò ra bây giờ là trứng ung ngay. Phải
tới nửa đêm, cởi hết quần áo, nằm ngửa, bấy giờ mới mở vỏ sò.
Lấy chiếc đũa tre trong đó, chích lên ngực một cái cho máu rỉ
ra. Quay đầu đũa tre lại, phía dèm dẹp đó, khều trứng con Ma
Ngải ra khỏi chất nước sền sệt trong vỏ sò, để nó ngay lên
ngực, chỗ ông chích máu lúc
nãy. Trứng Ma Ngải gặp nhiệt độ trong người ông chỉ vài phút
sẽ nở ngay ra một con ma con. Nó sẽ hút máu ông liền. Nhưng
không lo, nó chỉ hút được một giọt là no cứng bụng rồi. Chờ
cho nó không hút nữa, lại lấy chiếc đũa tre khều nó để lên cây
ngải cho nó hút mủ cây. Xong cất chiếc đũa tre vô vỏ sò để nó
được ngâm nước trong đó. Tối mai ông lại lấy đũa tre ra, chích
vô chỗ ông chích hôm qua cho
máu rỉ ra. Khều con Ma Ngải trên cây xuống, để nó hút máu và
ngày thứba cũng làm như vậy. Trongba ngày này, tuyệt đối không
được dùng vật gì khác ngoài chiếc đũa tre để khều con Ma Ngủi.
Nếu không, nó sẽ chết ngay. Tối thứ ba, Ma Ngải sẽ ngử luôn
với ông cho tới sáng, và nó tự biết trở về cây ngải một mình
rồi. Từ tối thứ tư trở đi, ông không phải chích máu ở ngllc
nữa. Có thể ở đâu cũng được, nhưng tôi nghĩ tốt nhất ở đầu
ngón tay là hơn. Vì lúc đó ông phải cho nó uống máu lúc nó
đang nằm trên cây ngải. Cứ như thế cho tới ngày thứ ba mươi
sáu là thành công rồi. Nó sẽ giúp ông trả thù và ông cũng có
thể bảo nó làm
những gì ông cần thiết nữa."
(Hết Phần 2 … Xin xem tiếp
Phần 3) |
|