Sau khi ăn cháo trên huyện, trên đường trở về
cái đói càng dữ dội. Người ta không còn sức để chôn những xác
chết trên đường, thậm chí không còn tâm trạng nhìn mặt người
chết chỉ mỗi xác ông Ba Phàn là ngoại lệ. Trong giờ phút nguy
ngập, con người không được người ta ưa lắm này cởi phăng áo da
dê làm thành bó đuốc, dùng ánh lửa và lời lẽ thức tỉnh lý trí
của chúng tôi. Không thể quên cái ơn cứu mạng. Mẹ dẫn đầu, mọi
người kéo cái xác gầy như que củi xuống vệ đường. Nấm mồ được
đắp bằng đất vụn.
Về đến nhà, phát hiện đầu tiên của chúng tôi là chị Ba ôm một
cái bọc mà vỏ ngoài là cái áo da báo, đi đi lại lại trong sân.
Mẹ vịn mép cổng, gần như khuỵu xuống.
Chị Ba bước tới dưa cái bọc cho mẹ. Mẹ hỏi:
- Bọc gì đây? Chị nói bằng tiếng người tương đối chuẩn:
- Cháu bé.
Mẹ ra vẻ hiểu nhưng vẫn hỏi:
- Con ai?
Chị Ba nói:
- Còn ai vào đây nữa!
Chiếc áo da báo của Lai Đệ chỉ có thể bọc con của Lai Đệ
Đó là một đứa con gái đen như một cục than, hai con mắt phảng
phất mắt gà chọi, cặp môi mỏng dính, hai vành tai to và trắng,
rất không hòa hợp với da mặt. Đặc trưng này xác nhận không thể
chối cãi nguồn gốc con bé. Nó là con của Sa Nguyệt Lượng với chị
Cả, đứa cháu ngoại đầu tiên của gia đình tôi.
Mẹ tỏ ra ghét cay ghét đắng con bé. Nó, trái lại, mỉm cười như
con mèo con, đáp lại thái độ của mẹ. Mẹ tức điên lên, quên cả
chị Ba có phép thần thông, đạp cho chị Ba một cái vào chân.
Chị Ba ối lên một tiếng ngã chúi về phía trước. Khi chị ngoảnh
lại, trên mặt lộ rõ sự tức giận của loài chim. Chị dẩu mỏ ra như
sắp mổ, hai tay giơ cao như sắp sửa bay lên. Mẹ không đếm xỉa
đến chị là người hay chim, chửi:
- Đồ khốn, ai cho mày nhận con của nó?
Chị Ba ngọ ngoạy đầu, như tìm kiếm sâu bọ trên cây ngô đồng. Mẹ
lại chửi:
- Lai Đệ, mày là đồ thối thây không biết xấu hổ! Sa Hòa thượng,
mi là đồ thổ phỉ lòng lang dạ sói? Chúng mày chỉ biết đẻ mà
không nuôi! Chúng mày tưởng cứ quẳng cho ta là ta nuôi hộ? Có mà
nằm mơ? Ta thì quẳng cái đồ con hoang này xuống sông cho ba ba
nó ăn, ném ra đường cho chó nó xé xác, quẳng xuống đầm cho quạ
nó rỉa. Hãy đợi đấy.
Mẹ bế con bé, miệng cứ lặp đi lặp lại cho ba ba ăn, cho chó xé
xác, cho quạ na, vừa chạy như bay trong ngõ, chạy lên đê rồi
chạy trở lại đường phố, từ đồng phố chạy trở lại đê... càng chạy
càng chậm dần, tiếng gào ngày càng nhỏ như một chiếc máy kéo đã
cạn đầu, mẹ ngồi phịch xuống đất, chỗ mục sư Malôa từ gác chuông
rơi xuống. Mẹ ngước nhìn gác chuông, miệng lẩm bẩm:
- Người thì chết, người bỏ đi, để tôi chơ vơ một mình, tôi sẽ
sống như thế nào, cả một lũ đang há miệng chờ ăn? Chúa ơi, ông
trời ơi, xin hãy cho tôi biết, tôi sẽ sống như thế nào?
Tôi khóc, nước mắt rơi trên gáy mẹ. Con bé cũng khóc, nước mắt
chảy vào tai. Mẹ dỗ tôi:
- Kim Đồng, con là hòn máu của mẹ, nín đi con.
Mẹ dỗ con bé:
- Tội nghiệp cháu, lẽ ra cháu không nên sinh ra ở đời này! Sữa
của ngoại chỉ vừa đủ cho cậu của cháu. Thêm một nữa, cả hai đều
chết đói. Không phải ngoại nhẫn tâm mà vì ngoại không còn cách
nào khác...
Mẹ bỏ lại con bé bọc trong chiếc áo da báo ở cổng nhà thờ, rồi
chạy về nhà như bị ma đuổi. Nhưng chỉ chạy được hơn chục buộc,
chân mẹ đã cất không nổi nữa. Con bé khóc như lợn bị chọc tiết,
tiếng khóc như sợi dây vô hình giữ chân mẹ lại...
Ba hôm sau, cả nhà tôi gồm chín người xuất hiện ở Chợ Người
trong khu vực Chợ Lớn trên huyện. Mẹ địu tôi trên lưng, tay bế
con súc sình nhà họ Sa, chị Tư cõng thằng lưu manh nhà họ Tư Mã.
Chị Năm cõng chị Tám. Chị Sáu chị Bảy tự đi lấy.
Chúng tôi bới đống rác kiếm ít lá rau thừa để ăn, cố gắng đi cho
đến Chợ Người. Mẹ cắm cây cao lương trên gáy chị Năm, chị Sáu,
chị Bảy, đợi người đến mua. Trước mặt chúng tôi là những dãy nhà
đơn giản bằng gỗ ván, tường và mái quét vôi trắng. Khói bốc cuồn
cuộn từ ống khói nhô ra ở đầu thang. Làn khói bay lên không
trung thay hình đổi dạng trước làn gió. Chốc chốc lại có những
cô gái làm tiền, tóc xõa, hở ngực, môi đỏ chót, mắt ngái ngủ từ
trong căn nhà gỗ chạy ra, hoặc bê chậu hoặc xách thùng, đến lấy
nước ở giếng lộ thiên, trên giếng đặt ròng rọc, hơi nước nhẹ
nhàng bốc lên. Họ kéo ròng rọc bằng hai cánh tay ẻo lả trắng
nhợt. Sợi thừng miết trên con lăn rít lên khe khẽ. Khi chiếc
thùng thô và nặng lên đến miệng giếng, họ dùng chân đi guốc móc
lấy quai thùng rê ngang đặt lên tang giếng lổn nhổn những cục
băng có hình bánh bao hoặc bầu vú. Đám phụ nữ bê nước chạy ra
chạy vào, tiếng guốc cốp cốp ròn rã: Những bầu vú tỏa ra mùi
khét của lưu huỳnh. Qua vai mẹ, tôi nhìn từ xa những người đàn
bà kỳ quái đó, nhốn nháo những vú là vú như hoa thuốc phiện trên
nương, như đàn bướm trong thung lũng. Họ rất hấp dẫn chị tôi.
Tôi nghe chị Tư khẽ hỏi mẹ, nhưng mẹ không trả lời. Chúng tôi
đứng trước bức tường cao, dầy và dài. Nó chắn gió tây bắc, chúng
tôi cảm thấy dễ chịu. Mặt trời đỏ rực nhô khỏi đường chân trời
màu xám nhạt khiến tôi nghĩ tới hình ảnh lá cờ đang bay trên mặt
thành. Bên trái bên phải chúng tôi, một số người mặt xanh nanh
vàng, đói khát như chúng tôi, đứng co ro, đàn ông và đàn bà, phụ
nữ và trẻ con, có đủ. Đàn ông nhăn nheo như cây khô, quá nửa là
bị mù, không mù thì toét mắt. Người nào cũng có một đứa nhỏ đứng
bên cạnh, hoặc con gái hoặc con trai, thật ra rất khó phân biệt
trai hay gái. Chúng đen nhẻm như từ ống khói chui ra, đen như
một cục than. Sau gáy đứa nào cũng cắm một nhánh cỏ, phần lớn là
cây cao lương với những lá khô vàng khiến người ta nghĩ đến mùa
thu, nghĩ đến mùi rơm rạ ngựa nhai trong đêm tối, nghĩ đến tiếng
động khiến người và ngựa đều vui thích. Cũng có trường hợp cắm
đại một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó, cỏ đuôi lừa: Phụ nữ thì quá
nửa như mẹ, con cái vây xung quanh, nhưng không nhiều con như
mẹ. Những nhóm trẻ ấy, có nhóm tất cả đều cắm cỏ sau gáy, có
nhóm đứa cắm đứa không. Phía trên đầu đám trẻ là những cái đầu
nặng nề của những con ngựa to lớn, những con lừa đại, với cặp
mắt như những quả lục lạc cặp môi dày dâm đãng mọc tua tủa những
lông cứng, hàm rằng đều và khỏe lấp lóa giữa đôi môi, cũng cắm
đại lên đầu một nhánh cỏ dại, cỏ đuôi chó hoặc đuôi lừa. Chỉ
riêng một phụ nữ thì khác. Chị này mặc bộ đồ trắng, sợi dây buộc
tóc cũng trắng, mặt trắng nhọt, hốc mắt và môi tím tái. Chị
không có trẻ con đứng bên cạnh. Chị đứng một mình dưới chân
tường. Chị cầm trên tay - không phải, cài sau gáy - một nhánh cỏ
đuôi chó hoàn chỉnh còn nguyên cả lá, tuy lá đã khô, nhưng đó là
một nhánh cỏ đẹp, phát dục đầy đủ, lá còn giữ được màu xanh, tuy
là xanh héo nhưng vẫn còn sức sống: chùm lông phất phơ mềm mại,
vàng rực lên dưới nắng. Rất lâu, ánh mắt tôi như bị hút chặt vào
bông cỏ đuôi chó, trái tim tôi như chìm trong cái đẹp thê thảm
của bông cỏ đuổi chó, vì rằng tôi trông thấy những núm vú tí xíu
trên thân và giữa những kẽ lá của bông có đuôi chó.
Phía dãy nhà quét vôi trắng nhốn nháo, tiếng chửi the thé chói
tai, như lưỡi dao rạch vào không khí. Hai cô gái đang ẩu đả ở
chỗ giếng nước. Một cô mặc quần màu hồng, một cô mặc quần màu
xanh. Cô quần hồng cào vào mặt cô quần xanh. Cô quần xanh thụi
cho cô quần hồng một quả vào ngực. Rồi, cả hai đều lùi lại nhìn
nhau trong một phút. Tuy không nhìn thấy, nhưng tôi đoán được
ánh mắt hai người như thế nào, chắc rất giống cái nhìn của chị
cả Lai Đệ và chị hai Chiêu Đệ. Bỗng cả hai xông vào nhau như gà
chọi, những thân hình nhấp nhô như chó chạy trong ruộng lúa
mạch, tay vung, vú lắc, nước bọt bắn tung tóe, lấp loáng như
những con thiêu thân dưới ánh đèn. Cô quần hồng túm được tóc cô
quần xanh. Cô quần xanh theo đà ngoạm một miếng vào vai trái cô
quần hồng, cô quần hồng cũng ngoạm luôn một miếng vào vai trái
cô quần xanh. Hai bên đồng cân đồng lạng, tài sức ngang nhau,
quần nhau bên giếng nước. Những cô khác, người thì tựa cửa hút
thuốc, người đánh răng súc miệng nhổ bọt phì phì, người lại vỗ
tay cười ngặt nghẽo, người phơi tất mỏng dính trên dây thép.
Trên phiến đá hình tròn trước dãy nhà, một người đứng thẳng
đuỗn, chân đi ủng đen bóng lộn, tay cầm roi mây, vụt trái đánh
vút một cái, vụt phải đánh vút một cái. Hắn dùng roi thay đao để
luyện đao thuật. Một đám đàn ông từ một rừng cờ phía tây nam đi
tới, những người bụng lép vây quanh vài người thấp lùn bụng phệ,
nung núc những mỡ. Người bụng phệ cười khùng khục như gà cục tác
Tiếng cười quái gở đó cứ ám ảnh tôi, khiến tôi nhớ lại quang
cảnh bên giếng nước. Những người bụng phệ cùng đám tùy tùng tiến
đến ngôi nhà gỗ ván, tiếng cục tác nghe càng rõ. Người đang
luyện đao thuật trên phiến đá nhảy vội xuống, lỉnh vào trong
nhà. Một mụ béo lùn tịt lạch bạch chạy ra chỗ giếng nước, bàn
chân nhỏ đến nỗi gần như không có, bắp chân cắm thẳng xuống đất.
Qua hai cánh tay ngắn ngủn và mập như ngó sen vung vấy, có thể
kết luận mụ đang chạy gằn, tốc độ thì như thế nhưng quãng đường
đi thì không được bao nhiêu. Có bao nhiêu sức đều dồn cho những
cái lắc của cơ thể và co rút của bắp thịt. Khoảng cách chừng một
trăm thước, có lẽ hơn, chúng tôi đã nghe rõ tiếng thở của mụ,
hơi nước thở ra trùm lên người giống như mụ đang ở trong nhà
tắm. Cuối cùng thì mụ cũng đã tới giếng nước.
Tiếng chửi của mụ bị hơi thở làm đứt quãng, không rõ ý, chỉ nghe
câu được câu chăng. Chúng tôi đoán mụ là chủ của hai cô đang
đánh nhau, mụ đến để gỡ hai cô ra. Nhưng hai cô quyết không nhả
miếng cắn, cuộc đấu của diều hâu với chim ưng, vuốt quặp lấy
vuốt, khó mà gỡ. Họ đẩy nhau kẻ tiến người lui, kẻ lui người
tiến, mấy bận suýt lăn xuống giếng nhưng không lăn vì vướng cái
khung treo ròng rọc. Mụ béo đến gỡ họ ra cũng suýt bị rơi xuống
giếng, sở dĩ không rơi cũng là nhờ cái khung ròng rọc giữ lại.
Mụ nằm sấp trên cái khung, tìm cách đặt chân xuống đất. Chúng
tôi trông thấy mụ bị trẹo chân khi nhảy ra dẫm phải cục băng
tròn như cái bánh bao, ngã ngồi xuống đất, nghe thấy tiếng nheo
nhéo từ miệng mụ phát ra. Chẳng lẽ mụ khóc? Mụ đứng dậy bê lấy
chậu nước hắt lên người hai cô kia. Hai cô giật mình la lên rồi
buông nhau ra. Cả hai đầu tóc rối bù, cả hai mặt mày xây xước,
cả hai quần áo rách toạc, cả hai đều bị thương lốm đốm ở bầu vú.
Người nọ nhổ máu của người kia ra, cơn giận vẫn chưa nguôi. Mụ
béo lại bê chậu nước khác hắt lên người họ, làn nước uốn mình
trong không trung như cánh chim, trong suốt. Mụ mất đà, ngã lần
nữa, chiếc chậu sành văng đi, suýt rơi trúng đẩu những người đàn
ông bụng phệ. Họ rất quen nhau, đùa bỡn chọc ghẹo sờ soạng cấu
véo, cuối cùng cả hai vào trong căn nhà gỗ.
Tôi nghe thấy xung quanh thở dài, mới biết họ đều xem màn kịch
bên giếng nước.
Giữa trưa, một cỗ xe ngựa từ hướng đông nam theo đường cái quan
đi tới. Ngựa là ngựa trắng, ngẩng cao đầu, một lọn bờm màu bạc
rủ trước trán, đôi mắt hiền lành, mũi màu phấn hồng môi đỏ tía,
cổ đeo nhạc đồng. Vì vậy khi con ngựa kéo cỗ xe rẽ xuống đường
cái quan, chúng tôi nghe thấy tiếng nhạc ngựa kêu ròn tan. Chúng
tôi trông thấy cọc yên - ở đây phải gọi là mỏm yên, dưới cao lên
rất quí phái. Chúng tôi chưa bao giờ trông thấy một cái yên đẹp
như thế. Dóng xe cũng không phải thanh dóng bình thường, mà là
bọc đồng sáng loáng. Bánh xe cao cao, trục xe mạ kền, mui xe
bằng vải trắng sơn nhiều lớp đầu ngô đồng. Chúng tôi chưa bao
giờ trông thấy một cỗ xe sang trọng đến như vậy và nghĩ rằng,
nguôi ngồi trên cỗ xe này còn sang trọng hơn người đàn bà ngồi
xe du lịch đến gặp Nàng Tiên Chim. Chúng tôi cho rằng người ngồi
bên ngoài mui có hàng ria vênh trên môi cũng không phải con
người bình thường. Hắn vênh mặt lên, cặp mắt tóe lửa. Hắn thâm
trầm hơn Sa Nguyệt Lượng, nghiêm túc hơn Tư Mã Khố, có lẽ Hàn
Chim ăn mặc quần áo như hắn mới so được với hắn.
Xe từ từ dừng lại. Bà ta khoác áo lông điêu màu mận chín, cổ
quàng khăn lông chồn. Tôi rất mong bà ta chính là Chị cả Lai Đệ.
Nhưng bà ta không phải chị Lai Đệ. Đây là một phụ nữ nước ngoài,
mũi cao, mắt xanh, tóc bạch kim. Tuổi ư? Chỉ có cha mẹ bà ta mới
biết bà ta bao nhiêu tuổi! Xuống xe cùng với bà ta, là một thanh
niên tuấn tú, mặc bộ đồng phục học sinh màu xanh, áo khoác bên
ngoài cũng màu xanh, tóc đen như mun. Nhìn phong thái anh ta có
vẻ là con trai bà kia, nhưng về dung mạo thì anh ta chẳng giống
chút nào.
Những người xung quanh chúng tôi tranh nhau ùa tới, làm như định
giành lấy bà ngoại quốc, nhưng chưa tới gần họ đã dừng lại, vẻ
ngần ngại. Thưa bà, thưa quí bà, bà mua đứa cháu của tôi! Thưa
bà, thưa bà lớn, xin bà hãy nhìn thằng con tôi, nó trung thành
hơn con chó, việc gì cũng làm được... Đàn ông và đàn bà rụt rè
rao bán con cái với người đàn bà ngoại quốc. Riêng mẹ vẫn đứng
yên tại chỗ. Mắt mẹ như dại đi, nhìn chăm chằm chiếc áo lông
điêu và chiếc khăn quàng lông cáo. Rõ ràng mẹ đang nhớ chị Lai
Đệ. Mẹ đang bế đứa con gái của chị, trong lòng ngổn ngang, nước
mắt lã chã. Bà đầm quí phái dùng khăn tay nửa che nửa bịt miệng,
đi một vòng chợ người, người bà sực núc mùi nước hoa, khiến tôi
và thằng lỏi nhà Tư Mã hắt hơi liên tục. Bà ta ngồi xổm trước
ông lão mù, ngắm nghía con nhỏ cháu lão. Nó nhiều nhất cũng chỉ
lên bốn. Nó khiếp đảm vì con cáo trên cổ bà ta, hai tay ôm chặt
chân ông lão. Cặp mắt hốt hoảng của con bé khiến tôi nhớ mãi.
Ông lão mù đã đánh hơi thấy quí nhân, giơ tay ra phía trước,
nói:
- Thưa bà, thưa bà, xin bà hãy cứu cháu, ở với lão thì nó chết
mất, thưa bà, lão một xu cũng không lấy, thưa bà...
Bà đầm đứng dậy, xì xô câu gì đó với người thanh niên mặc đồng
phục học sinh, anh ta cao giọng hỏi ông lão:
- Lão là thế nào với con bé?
Ông già mù nói:
- Lão là ông nó, người ông vô dụng, người ông chết tiệt!...
Người thanh niên lại hỏi:
- Cha mẹ nó đâu?
Ông lão mù nói:
- Chết rồi, chết cả rồi. Người đáng chết thì chẳng chết, người
không đáng chết thì lại chết, thưa ông, xin ông làm ơn đem cháu
đi, lão không lấy xu nào đâu, chỉ xin ông cho cháu con đường
sống!...
Người thanh niên quay sang xì xồ với bà đầm, bà đầm gật đầu,
người thanh niên cúi xuống định kéo tay con bé, nhưng khi bàn
tay vừa chạm vai thì con bé cắn ngay một miếng vào cổ tay anh
ta. Anh ta rú lên, nhảy lùi lại. Bà đầm trọn mắt nhún vai, rồi
dùng chiếc khăn tay bịt miệng, băng cổ tay cho anh ta.
Với tâm trạng không rõ là sợ hay là mừng, chúng tôi chờ như đến
một nghìn năm, bà ngoại quốc vàng ngọc đầy người, nước hoa điếc
mũi cùng với người thanh mến bị thương ở cổ tay, rốt cuộc đã
dừng trước gia đình tôi. Và, sau lưng chúng tôi, ông lão mù đang
vung gậy trúc đánh đứa cháu gái cắn nó. Con bé nhanh nhẹn chơi
trò ú tim với ông nó, khiến cây gậy lúc thì vụt xuống đất, lúc
vụt vào tường.
- Mi là cái số ăn mày! - Ông lão mù than thở.
Tôi hít lấy hít để mùi nước hoa, từ mùi hoa hòe nhận ra mùi hoa
hồng, rồi từ mùi hoa hồng nhận ra mùi thoang thoảng của hoa cúc.
Nhưng làm tôi mê mẩn chính là mùi tỏa ra từ cặp vú của bà ta,
cái mùi hăng hăng khiến tôi lợm giọng, nhưng tôi vẫn hếch mũi
hít lấy hít để. Không còn khăn tay, miệng bà lộ rõ hoàn toàn,
một cái miệng rộng như của chị Lai Đệ, với đôi môi mọng như của
chị Lai Đệ. Môi to son, mũi có những điểm tương đồng như mũi của
các con gái nhà Thượng Quan: mũi dọc dừa. Chỗ không giống nhau
là chóp mũi con gái nhà Thượng Quan có hình củ hành, ngây thơ mà
dáng yêu, còn chóp mũi của người đàn bà ngoại quốc này thì khoằm
xuống như mỏ diều, một loài chim ăn thịt. Trán ngắn, mỗi khi
nhường mắt lên, trên trán hằn sâu những nếp nhăn. Tôi biết mọi
người đang chăm chú nhìn người đàn bà ngoại quốc, nhưng tôi có
thể tự hào mà nói rằng, không ai quan sát tinh tế hơn tôi, không
ai thu hoạch nhiều hơn tôi. ánh mắt tôi xuyên qua lớp lông dày
trên cơ thể bà ta, nhìn thấy cặp vú to bằng vú mẹ tôi mà vẻ đẹp
của chúng khiến tôi quên cả đói rét.
- Vì sao bà phải bán con? - Người thanh niên giơ cánh tay quấn
băng, chỉ vào các chị của tôi có cài cọng cỏ sau gáy
Mẹ không trả lời câu hỏi của anh ta. Chẳng lẽ trả lời một câu
hỏi ngu xuẩn như vậy. Anh ta ngoảnh lại xì xồ với người đàn bà
ngoại quốc, có thể là bà chủ cũng có thể là không của anh ta. Bà
ta chú ý ngay chiếc áo lông điêu ủ cho con gái Lai Đệ. Bà ta sờ
mặt áo, bắt gặp cặp mắt man dại và u sầu của con bé, bà ta vội
quay đi.
Tôi rất muốn mẹ cho bà ta đứa con gái của Lai Đệ.
Chúng tôi cũng không lấy một xu, còn tặng thêm bà ta chiếc áo
lông điêu. Tôi ghét con bé. Nó không có lý gì để ăn chia sữa mẹ
với tôi. Ngay cả chị Tám cũng không đủ tư cách ăn chia, huống hồ
nó! Hai bầu vú của chị Lai Đệ để làm gì? Sa Nguyệt Lương nhả đầu
vú chị Lai Đệ, nhố máu cục ra, súc miệng bằng nước lã. Anh ta
nói:
- Phải vậy thôi! Em bị chốc vú!
Chị Lai Đệ nước mắt ràn rụa, hỏi:
- Anh Lượng, chúng mình như con thỏ bị chó săn dồn đuổi, bao giờ
mới kết thúc những chuyện này?
Sa Nguyệt Lượng ngồi hút thuốc, suy nghĩ rất lung nét mặt trở
nên hung hãn, nói:
- Mẹ kiếp, ai có sữa người ấy là mẹ. Hãy chạy theo Nhật, hay thì
ở dở thì xéo!
Bà ngoại quốc ngắm nghía các chị tôi một lượt, đầu tiên là chị
Năm, chị Sáu, vì sau gáy có cắm cỏ, sau đó xem chị Tư, chị Bảy,
chị Tám không có cỏ sau gáy, không thèm ngó thằng mất dạy nhà Tư
Mã. Hình như bà có vẻ thích tôi. Tôi cho rằng ưu thế của tôi là
cái đầu tóc vàng mềm mại. Cách thức xem xét của họ cũng rất lạ.
Người thanh niên ra lệnh cho các chị tôi lần lượt thực hiện các
động tác sau: cúi đầu, cúi gập người, hất chân, tay nọ nắm tay
kia rồi giơ cao quá đầu, dưa hai vai ra trúc, ra sau, há to
miệng kêu a...a..., cười một tiếng, đi vài bước, chạy vài bước.
Các chị ngoan ngoãn thực hiện mệnh lệnh của anh ta. Bà ngoại
quốc nhìn chăm chú, lúc gật gật, lúc lại lắc đầu. Cuối cùng bà
chỉ vào chị Bảy, xì xồ với người thanh niên.
Người thanh niên chỉ vào bà ngoại quốc, bảo mẹ:
- Đây là bá tước phu nhân Roxtov, bà là một nhà từ thiện lớn. Bà
muốn nhận một bé gái Trung Quốc làm con nuôi. Ưng đứa này, phúc
cho gia đình bác!
Mẹ bỗng ứa nước mắt, chuyển con bé của Lai Đệ cho chị Tư, đang
tay ôm lấy đầu chị Bảy:
- Bảy ơi, Cầu Đệ ơi, con yêu của mẹ, con gặp may rồi!
Nước mắt mẹ tôi như mưa xuống đầu chị Bảy. Chị sụt sịt khóc:
- Mẹ ơi, con không đi với bà đâu, người bà ấy khó ngửi lắm...
Mẹ nói:
- Con ngốc nghếch của mẹ, người ta thơm đấy con ạ!
Người thanh niên sốt ruột, nói:
- Thôi bác bàn chuyện giá cả đi!
Mẹ nói:
- Thưa ông, được làm con nuôi của bà đây thì chuột sa chĩnh gạo,
tôi không lấy tiền đâu... Chỉ xin đối xử tốt với cháu!
Anh thanh niên dịch lại cho bà ngoại quốc nghe, bà ngọng nghịu
nói bằng tiếng Trung Quốc:
- Không, vẫn cứ cho tiền.
Mẹ hỏi: - Thưa ông, ông hỏi bà phu nhân xem có thể nhận một đứa
nữa không? Cho chúng có chị có em!
Người thanh niên dịch lại. Phu nhân Roxtov dứt khoát lắc đầu.
Người thanh niêndúi vào tay mẹ hơn chục tờ tiền giấy màu phấn
hồng, rồi vẫy vẫy người đánh xe. Người đánh xe chạy tới, cúi
chào anh thanh niên.
Người đánh xe bế chị Bảy ra xa. Lúc này chị mới khóc òa lên và
giơ cánh tay khẳng khiu về phía mẹ. Các chị khóc òa theo, ngay
cả thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng nhếch miệng òa lên một
tiếng, lát sau lại òa tiếng nữa. Người đánh xe đùn chị Bảy vào
trong xe. Bà ngoại quốc cũng vào theo, lúc người thanh niên sắp
lên xe, mẹ đuổi kịp, kéo tay anh ta, hỏi:
- Thưa ông, phu nhân ở đâu?
Anh ta trả lời lạnh nhạt:
- Cáp Nhĩ Tân.
Xe chạy lên đường cái quan, mất hút rất nhanh sau khu rừng.
Nhưng tiếng gào khóc của chị Bảy, tiếng leng keng của nhạc ngựa,
mùi hương trên vú của Bá tước phu nhân đọng mãi trong ký ức tôi.
Mẹ đã biến thành tượng đất, tay vẫn giơ cao nắm tiền, tôi cũng
biến thành một bộ phận của tượng.
Đêm ấy chúng tôi không ngủ ngoài đường mà trọ trong một quán
trọ. Mẹ sai chị Tư chạy đi mua hơn chục cái bánh mì. Chị lại mua
về bốn mươi cái bánh bao, một gói thịt thủ lợn. Mẹ giận, nói:
- Con Tư, đây là tiền bán em mày đấy!
Chị Tư vừa khóc vừa nói:
- Mẹ, để các em ăn một bữa cho no, mẹ cũng phải ăn một bữa ho.
Mẹ vừa khóc vừa nói:
- Tưởng Đệ, mẹ làm sao nuốt nổi bánh này, thịt này...
Chị Tư nói:
- Mẹ không ăn gì thì Kim Đồng chết mất!
Lời khuyên của chị Tư rất có kết quả, mẹ kìm nước mắt ăn lấy
được chỗ bánh bao và thịt để có sữa cho tôi, và cũng là có sữa
cho con gái chị Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng, cái đồ cường đạo ấy,
tối tối dùng bữa với bọn Nhật!
Mẹ ốm rồi.
Mẹ nóng như lò than, đến nỗi Kim Đồng không lúc nào rời lưng mẹ
cũng phải bỏ cuộc. Chúng tôi ngồi vậy quanh mẹ, chỉ biết giương
mắt nhìn nhau. Mẹ nhắm mắt, bọt rãi trong suốt đùn ra hai bên
mép, mẹ lắp bắp những câu ghê người, lúc thì gào toáng lên, lúc
lại lẩm bẩm một mình. Có lúc nói oang oang phấn khởi, lúc lại
đau xót kể lể. Thượng đế, Đức Mẹ đồng trinh, thiên sứ, ma quỉ,
Thượng Quan Thọ Hỉ, mục sư Malôa, ông Ba Phàn, Tư Vu, dì lớn,
cậu Hai, ông ngoại, bà ngoại... ma quỉ Trung Quốc và thần linh
nước ngoài, người còn sống và người đã chết, những chuyện chúng
tôi biết và những chuyện chúng tôi chưa biết, tuôn ra như suối
từ miệng mẹ, lắc lư, uốn éo, làm diệu làm bộ, biến ảo trước mắt
chúng tôi.
Tìm hiểu những câu nói mê của mẹ chồng khác tìm hiểu vũ trụ, ghi
lại những điều nói mê của mẹ thì cầm bằng ghi lại toàn bộ lịch
sử vùng Cao Mật.
Chủ quán, một người đàn ông trung niên da bèo nhèo, mặt đầy nốt
ruồi, bị đánh thức vì tiếng rên la của mẹ. Ông ta vào buồng, sờ
trán mẹ, lập tức rụt tay lại, nói:
- Đi mời thầy thuốc mau, khéo chết mất!
Ông nhìn chúng tôi hỏi chị Tư:
- Cô là chị Cả phải không?
Chị Tư gật đầu, ông hỏi:
- Tại sao không mời thầy thuốc? Này, sao cô không nói gì thế!
Chị Tư khóc òa lên, quì sụp trước mặt chủ quán, nói:
- Bác ơi, bác cứu mẹ cháu với?
Ông chủ quán nói:
- Tôi hỏi cô nhé, cô có bao nhiêu tiền?
Chị Tư lục túi mẹ, lấy ra mấy tờ tiền giấy đưa cho ông chủ quán:
- Bác ơi, đây là tiền bán em Bảy cháu?
Chủ quán cầm tiền, nói:
- Cô đi theo tôi. Đi mời thầy thuốc? -
Tiêu hết số tiền bán chị Bảy, mẹ mới mở được mắt. Mẹ mở mắt rồi,
mẹ mở được mắt rồi? Chúng tôi rưng rung nước mắt, reo ầm lên. Mẹ
giơ tay sờ mặt từng đứa.
- Mẹ, mẹ, mẹ, mẹ?... - chúng tôi gọi.
- Bà ngoại ơi, bà ngoại!...
Thằng nhóc đáng thương nhà Tư Mã cũng lắp bắp.
- Nó đâu? Nó... Mẹ chìa một tay ra, hỏi.
Chị Tư bế con bé được bọc trong cái áo lông điêu tới trước mặt
để mẹ xoa đầu nó. Khi mẹ xoa đầu, nó nhắm mắt lại. Hai giọt nước
mắt của mẹ ứa ra.
Ông chủ quán với bộ mặt rầu rĩ bước vào, bảo chị Tư:
Này cô, không phải tôi nhẫn tâm, nhà tôi cũng nhiều miệng ăn!
Mười mấy ngày nay, nào tiền trọ, tiền cơm, tiền đầu đèn...
Chị Tư nói:
- Bác ơi, bác là ân nhân của gia đình cháu. Cháu nhất định sẽ
trả bác đầy đủ, chỉ xin bác đừng đuổi mẹ cháu đi, mẹ cháu!...
Buổi sáng ngày Mười tám tháng Hai năm Một nghìn chín trăm bốn
mươi mốt, Thượng Quan Tưởng Đệ đưa cho mẹ vừa khỏi bệnh một xấp
tiền. Chị nói:
- Mẹ, con đã trả đủ nợ của bác chủ quán, chỗ này là tiền thừa...
Mẹ ngạc nhiên, hỏi: - Tưởng Đệ, con lấy đâu ra tiền thế này?
Chị Tư cười như mếu, nói:
- Mẹ cho các em về đi, nơi này không phải là nhà của ta!...
Mặt mẹ trắng nhợt, túm tay chị Tư, hỏi:
- Tưởng Đệ, cho mẹ biết...
Chị Tư nói:
- Mẹ, con đã bán mình rồi, bác chủ quán giúp con mặc cả đến nửa
ngày trời...
Mụ chủ chứa kiểm tra toàn thân chị Tư như kiểm tra gia súc, nói:
- Gầy quá.
Ông chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, chỉ một bao gạo là béo lên ngay đấy mà! Mụ chủ giơ
lên hai ngón tay, nói:
- Hai trăm đồng! Tôi làm phúc để lấy đức!
Chủ quán nói:
- Bà chủ ơi, cô này có mẹ đang đau nặng, lại còn một đàn em, trả
thêm cho cô ấy đi!
Bà chủ nói:
- Thời buổi này làm việc thiện khó quá!
Chủ quán nài nỉ, chị Tư quì sụp xuống. Bà chủ nói:
- Thôi được, tôi hay thương người, thêm một trăm nữa, kịch giá
rồi đấy.
Mẹ lảo đảo rồi ngã sóng soài ra nhà. Khi ấy, chúng tôi nghe một
giọng khàn khàn ngoài cửa:
- Đi nào cô bé. Ta không có nhiều thì giờ đợi cô đâu!
Chị Tư quì xuống, dập đầu lạy mẹ một lạy. Rồi chị đứng dậy xoa
đầu chị Năm, vuốt má chị Sáu, kéo tai chị Tám, vội vàng nâng cằm
tôi thơm một cái. Chị bóp nhẹ hai vai tôi, nỗi xúc động khiến
khuôn mặt chị như hoa mai trong gió tuyết.
- Kim Đồng ơi, Kim Đồng - chị nói - em lớn mau lên, lớn nhanh
lên, nhà Thượng Quan ta trông vào mỗi mình em!
Nói xong, chị nhìn quanh căn buồng, yết hầu nhô ra ở cổ như cổ
gà. Chị bung miệng như buồn nôn, chạy vụt ra rồi mất hút không
thấy nữa. |
|