Hôm ấy là ngày mồng Bảy tháng Bảy âm lịch, Ngưu
Lang và Chúc Nữ gặp nhau. Trong nhà ngột ngạt, muỗi nhiều tới
mức có thể quơ được cả nắm. Mẹ trải chiếu dưới gốc cây thạch lựu;
lúc đầu chúng tôi ngồi, sau đó là nằm trên chiếu nghe mẹ thủ thỉ
kể chuyện. Lúc chạng vạng tối, trời mưa nhẹ. Mẹ bảo đó là nước
mắt Chúc Nữ. Không khí ẩm ướt, gió mát thổi đến từng cơn. Dưới
gốc cây lựu, những chiếc lá lấp lánh. ở trong chái dông và chái
tây, các binh sĩ thắp những ngọn nến tự tạo. Muỗi cắn, mẹ xua
chúng bằng lá bồ đề. Ngày hôm nay, tất cả chim khách đều bay lên
trời xanh, tầng tầng lớp lớp, cắn đuôi nhau, bắc nhịp cầu Ô Thức
trên sông Ngân phong ba cuồn cuộn. Chúc Nữ và Ngưu Lang qua cầu
Ô Thức đến với nhau, mưa và móc là những giọt lệ nhớ thương của
họ. Trong lời thủ thỉ của mẹ, tôi và Niệm Đệ, thằng nhỏ nhà Tư
Mã, ngước nhìn bầu trời đầy sao. Chị Tám tuy bị mù nhưng cũng
ngẩng mặt nhìn trời, mắt chị còn sáng hơn sao. Ngoài ngõ vang
lên tiếng chân nặng nề của những người đổi gác trở về. Cánh đồng
xa xa, ếch nhái đang hợp xướng. Trên dàn biển đậu chân tường,
chim Thợ Dệt cất tiếng hỏi: - Chiu chiu chiu... chiu chiu. Trong
màn đêm mờ ảo, một số chim lớn nặng nề bay qua, chúng tôi lờ mờ
trông thấy bóng trắng của chúng và tiếng vỗ cánh rào rào. Những
con dơi kêu chít chít, những giọt nước trên cành rơi tí tách. Sa
Tảo Hoa nằm trong lòng mẹ, ngáy đều đều. Chái đông vang lên
tiếng kêu như mèo của Lãnh Đệ, cái bóng đồ sộ của thằng câm lắc
lư trước ánh đèn. Hai người đã lấy nhau. Chính ủy Tưởng là người
làm mối. Tịnh thất thờ Nàng Tiên Chim trở thành phòng cô đâu với
những cuộc truy hoan. Nàng Tiên Chim thường xuyên mình trần chạy
ra sân. Thằng câm đeo trên hai núm vú chị hai quả lục lạc nhỏ,
khi chạy kêu loong chong. Một binh sĩ nhìn trộm vú chị, suýt bị
thằng câm đánh gãy cổ. Khuya rối, vào nhà ngủ đi, mẹ nói.
- Trong nhà nóng, lắm muỗi, cho chúng con ngủ ở đây. Chị Sáu nói.
Mẹ bảo, không được nhiễm sương là ốm, với lại, trên trời có...
Chúng tôi hình như nghe thấy có tiếng người đang trao đổi, bông
hoa đẹp quá, hái đi! Lúc về hãy hái. Đó là tiếng của những con
nhện thành tinh, chuyên cưỡng dâm những bông cúc vàng.
Chúng tôi nằm trên giường, không tài nào ngủ được. Điều kỳ lạ là
chị Tám lại ngủ rất ngon lành, khóe miệng có một tia nước bọt
trong suốt và thơm lựng. Cây ngải hun muỗi bốc khói cay cay. Cây
nến trên cửa sổ của các binh sĩ chiếu sáng cửa sổ chúng tôi,
cảnh vật trong sân mờ ảo. Những con cá biển chị Lai Đệ gửi cho
đã ươn, đang bốc mùi trong nhà xí. Chị còn gửi cho bao nhiêu của
cải, vải vóc tơ lụa, đồ dạc, đồ chơi, nhưng bị đại đội bộc phá
tịch thu tất. Then cửa buồng chính kêu khẽ.
- Ai đấy? - mẹ quát, thuận tay vớ con dao thái rau.
Không một chút động tĩnh. Có lẽ chúng tôi nghe lầm. Mẹ đặt con
dao vào chỗ cũ. Cây ngải hun muỗi khẽ lóe lên những tia sáng
ngắn ngay dưới chân giường.
Một bóng đen gầy gầy đột nhiên đứng ngay ở đầu giường. Mẹ kinh
hoảng kêu lên. Chị Sáu cũng hoảng hốt kêu lên. Bóng đen chồm lên
giường bịt miệng mẹ. Mẹ sờ soạng tìm con dao định chém thì bóng
đen nói:
- Mẹ, con là Lai Đệ.
Con dao rơi xuống chiếu. Chị Cả về rồi! Chị Cả quì trên giường,
khóc nức nở. Chúng tôi ngạc nhiên nhìn khuôn mặt lờ mờ của chị.
Tôi trông thấy có những gì lấp lánh trên đó.
- Lai Đệ, đúng là con đấy ư? Con là ma chăng? Con là ma mẹ cũng
không sợ, để mẹ xem mặt con một tí.
Mẹ tìm bao diêm trên đầu giường. Chị Cả giữ tay mẹ lại, hạ thấp
giọng, nói:
- Mẹ đừng thắp đèn.
- Lai Đệ, con nhẫn tâm lắm, những năm qua con với thằng Lượng đi
những đâu? Con làm khổ mẹ quá!
- Mẹ ơi, chuyện dài lắm. Chị Cả nói:
- Con gái con- Mẹ trao Sa Tảo Hoa đang ngủ say cho chị, nói: -
Thế mà cũng là mẹ, đẻ mà không nuôi, không bằng con vật.... Vì
nó mà em Tư và em Bảy...
- Mẹ ơi. Ân tình của mẹ thể nào cũng có lúc con đền đáp, cả em
Tư và em Bảy nữa
Lúc này chị Sáu bước tới gọi:
- Chị Cả?
Chị Cả ngửng lên, vỗ vỗ chị Sáu, nói:
- Em Sáu. Còn Kim Đồng đâu, Ngọc Nữ đâu? Kim Đồng Ngọc Nữ còn
nhớ chị không.
Mẹ nói:
- Nếu không có đại đội bộc phá thì cả nhà ta chết từ lâu rồi!
Chị Cả nói:
- Mẹ ạ, lão Tưởng và thằng tha Lỗ không phải con người!
Mẹ nói:
- Người ta không đối xử tệ với mình thì nói gì cũng phải có
lương tâm chứ?
Chị Cả nói:
- Mẹ, đó là âm mưu của họ, họ viết thư cho anh Lượng ép phải đầu
hàng, nếu không, sẽ bắt con gái của con làm con tin.
Mẹ hỏi:
- Lại có chuyện ấy hả? Họ đánh nhau thì việc gì đến con bé?
Chị Cả nói:
- Mẹ ơi, con về lần này là để cứu cháu. Mẹ ạ, con có đem theo
mười mấy người, chúng con đi ngay bây giờ, để cho bọn thằng Lỗ
mừng hụt! Mẹ ơi, công ơn của mẹ cao như núi, cho phép con được
báo đáp sau này. Con đi đây!
Chị Cả chưa nói dứt câu, mẹ đã giằng lại bé Tảo Hoa, giận dữ
nói:
- Lai Đệ, mày đừng đánh lừa tao. Trước kia mày quẳng con mày cho
tao như quẳng một con chó. Tao không quản nguy hiểm nuôi nó đến
bây giờ. Khá nhỉ, lại về đây ăn sẵn! Nào là đội trưởng Lỗ, chính
ủy Tưởng, mày bịa ra tất! Mày muốn làm mẹ rồi hả? Đú đởn với
thằng Lượng đủ rồi hả?
- Mẹ, anh ấy bây giờ là Lữ trưởng bộ đội liên hiệp Thiên hoàng,
cai quản cả nghìn người?
- Tao không cần nó có bao nhiêu người, tao cũng chăng cần chức
Trưởng của nó! - Mẹ nói - Mày bảo nó đến mà bế đi. Mày bảo nó,
những con thỏ mà nó treo trên cây, tao vẫn để đó.
- Mẹ ơi, đây là chuyện lớn, liên quan đến hàng ngàn vạn người,
mẹ đừng lẩm cẩm!
- Tao lẩm cẩm cả đời người rồi, ngàn vạn người tao cũng thây kệ!
Tao chỉ biết con Hoa là do tao nuôi, tao chẳng cho ai hết!
Chị Cả vồ lấy Tảo Hoa nhảy xuống giường chạy ra ngoài.
Mẹ quát:
- Đồ mất dạy, dám cướp hả?
Tảo Hoa òa khóc.
Mẹ nhảy xuống giường, đuổi theo.
Ngoài sân rộ lên những tiếng súng, cảnh hỗn loạn trên nóc nhà,
có người rú lên thê thảm rồi lăn xuống sân.
Một bàn chân dẫm thủng nóc nhà chúng tôi, đất rơi xuống rào rào
cùng với những ánh sao.
Trong sân cực kỳ hỗn loạn tiếng súng, tiếng gươm chạm nhau,
tiếng quát tháo của đám binh sĩ:
- Không cho chúng nó thoát?
Binh lính của đại đội bộc phá cầm trong tay mười mấy cây được
tẩm dầu chạy tới, trong sân sáng như ban ngày. Ngoài ngõ, sau
nhà đều có tiếng đàn ông. Sau nhà có tiếng người thét:
- Trói nó lại, xem nó còn chạy nữa không?
Đại đội trưởng Lỗ bước vào sân, nói với chị Lai Đệ lúc này đang
bế Tảo Hoa đứng nép vào chân tường:
- Bà Sa, bà làm vậy có đẹp không?
Sa Tảo Hoa khóc to.
Mẹ bước ra sân.
Chúng tôi bám cửa sổ nhìn ra ngoài.
Một người đàn ông nằm bên lối đi, trên người thủng lỗ chỗ, máu
chảy thành vũng rồi bò ra tứ phía như rắn. Mùi máu tanh lợm,
nóng hôi hổi. Mùi dầu hỏa xộc lên mũi. Máu vẫn chảy ra từ các
vết đạn, sủi bọt. Anh ta chưa chết hẳn, một chân vẫn co giật.
Miệng cạp đất, cổ vổng lên, không trông thấy mặt anh ta. Lá cây
như dát vàng. Thằng câm tay cầm đao, vừa ú ớ vừa ra hiệu với Lỗ
đại đội trưởng. Tiên Chim chạy ra, rõ khéo, khoác chiếc áo rõ
ràng là áo của thằng câm, vạt áo dài đến đầu gối, cặp vú nửa kín
nửa hở. Đôi chân thon dài, trắng muốt. Người chắc lẳn, bắp chân
trắng mịn. Miệng hé mở, mắt lim dim, lúc nhìn cây đuốc này, lúc
nhìn cây đuốc khác. Một tốp binh sĩ dẫn về ba người mặc quân
phục xanh, một ngoi bị thương ở tay, máu đang chảy, mặt tái
nhợt. Một người chân khập khiễng, một người bị trói vít đầu
xuống. Anh ta cố súc ngẩng đầu lên, nhưng một bàn tay khỏe ấn
đầu anh ta xuống. Chính ủy Tưởng cũng tới, trong tay cầm chiếc
đèn pin có buộc dải lụa dỏ.
Mẹ nhón gót chạy ra vì không kịp đi giày. Mùn giun đùn lên từng
đống trên mặt đất. Không hề sợ, mẹ mặt đối mặt với đại đội
trưởng Lỗ:
- Có chuyện gì vậy?
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Chuyện này không liên quan gì đến bác!
Chính ủy Tưởng làm một động tác thừa là dùng miếng vải đỏ che
mặt đèn pin. Anh ta chiếu đèn vào mặt Lai Đệ.
Lai Đệ thân hình mảnh đẻ như một cây bạch dương. Mẹ đi tới trước
mặt chị Cả giằng lấy bé Hoa. Bé Hoa. Ôm chầm lấy bà ngoại. Mẹ dỗ
nó:
- Cháu ngoan, đừng sợ, có ngoại đây!
Bé Hoa khóc nhỏ dần, rồi chỉ còn tiếng sụt sịt. Cánh tay chị Cả
vẫn giữ nguyên tư thế bế con cứng nhắc, trông rất xấu. Mặt chị
trắng bệch, hai mắt ngây dại. Chị mặc bộ quần áo xanh kiểu đàn
ông, đôi vú đã trưởng thành nhô cao, không dẹt như vú mẹ.
- Bà Lượng, chúng tôi đối xử với vợ chồng bà có thể nói là chí
nhân chí nghĩa? Không theo chúng tôi cũng chẳng ép, nhưng không
nên đầu hàng bọn Nhật? - Đại đội trưởng Lỗ nói.
Chị Cả cười nhạt:
- Đó là chuyện của các ông, đừng nói với bọn đàn bà chúng tôi.
Chính ủy Tưởng nói:
- Nghe nói bà Lượng là tham mưu cấp cao của ông Lượng?
Chị Cả nói:
- Tôi chỉ biết đòi lại con gái tôi. Các ông có giỏi thì chơi
nhau bằng gươm bằng súng. Đem trẻ con ra làm những trò mèo,
không phải là bậc trượng phu?
Chính ủy Tiếng nói:
- Bà sai rồi! Chúng tôi đối với tiểu thư có thể nói cực kỳ chu
đáo, có bà cụ làm chứng, có các em gái bà làm chứng, có đất dày
làm chứng, có trời cao làm chứng! Bản chất của chúng tôi là yêu
trẻ, vì trẻ, tất cả hành động của chúng tôi đều vì mục đích đó.
Chúng tôi không muốn một cô bé xinh đẹp như thế này mà lại có bố
mẹ là Hán gian!
Chị Cả nói:
- Ông đừng nhiều lời nữa. Tôi đã rơi vào tay các ông, muốn làm
gì thì làm!
Thằng câm xông ra. Dưới ánh sáng của mười mấy cây đuốc, hắn cao
to hung hãn lạ thường. Da đen thui như bôi một lớp mỡ con hoan.
Ôà... Ôà... mắt hắn như mắt chó sói, mũi lợn, tai khỉ, mặt hung
dữ như mặt hổ hắn vừa gào lên a... a... vừa giơ cánh tay hộ pháp
lên lắc lắc nắm đấm, chạy một vòng tròn trước mặt mọi người. Hắn
đá cái xác nằm trên lối đi và lần lượt đấm đá ba tù binh, mỗi
người một đấm, vừa đấm vừa kêu ố ố. Quả đấm cuối cùng, người tù
binh cố ngẩng đầu, ngã lăn ra bất tỉnh. Chính ủy Tưởng ngăn hắn
lại, khiển trách:
- Tôn Bất Ngôn, không được đánh tù binh.
Thằng câm nhếch miệng cười, chỉ vào chị Lai Đệ, lại chỉ vào ngực
hắn. Hắn đi tới trước mặt chị, tay trái bóp vai chị, tay phải
làm điệu bộ với mọi người. Chị Ba nhìn đăm đăm ngọn lửa luôn
thay hình đổi dạng. Chị Cả giơ tay trái tát đánh bốp vào má phải
thằng câm. Hắn buông tay, ngơ ngác xoa má, hình như không hiểu
cú đánh từ đâu tới. Chị Cả lại giơ tay phải tát đánh bốp vào má
trái thằng câm, cái tát vừa nhanh vừa mạnh. Hắn loạng choạng lùi
lại. Do lực phản hồi của cú tát, chị Cả cũng thoái lui một bước.
Chị Cả dựng ngược mày liễu, trợn tròn đôi mắt phượng, nghiến
rằng nghiến lợi, chửi:
- Đồ súc sinh, mày hủy hoại em gái tao!
Đại đội trưởng Lỗ bảo:
- Giải nó đi! Con nữ tặc, hung hăng khiếp!
Vài binh sĩ tiến đến kẹp chặt cánh tay chị Cả. Chị nói to:
- Mẹ lú lẫn rồi. Con Ba là chim phượng hoàng, thế mà mẹ gả cho
thằng Câm!
Một binh sĩ thở hồng hộc chạy vào, báo cáo:
- Báo cáo đại đội trưởng, báo cáo chính ủy, đại đội nhân mã của
Sa Nguyệt Lượng đã vào trấn Sa Lĩnh!
Đại đội trưởng Lỗ nói:
- Mọi người không được rối lên. Các trung đội trưởng chú ý, hành
động theo kế hoạch đã bàn, gài tất cả số mìn hiện có.
Chính ủy Tưởng nói:
- Để đảm bảo an toàn cho bác và lũ trẻ, bác đến đại đội bộ với
chúng tôi!
Mẹ lắc đầu, nói:
- Không, có chết cũng chết ở nhà?
Chính ủy Tưởng khoát tay, một tốp lính kèm chặt mẹ, tốp khác ùa
vào trong nhà. Mẹ gào to:
- Chúa ơi, xin Chúa chứng giám!
Cả nhà tôi bị giam trong phòng xép nhà Tư Mã. Trước cửa có lính
gác. Bên cạnh là đại sảnh, đèn khí sáng trung, người nói ầm ĩ.
Bên ngoài thôn, tiếng súng nổ như ngô rang.
Chính ủy Tưởng xách chiếc đèn bão, chụp đèn bằng thủy tinh. Khói
trong đèn bốc lên cuồn cuộn, khiến anh ta phải nheo mắt lại. Anh
ta để đèn lên bàn, nhìn chúng tôi từ đầu đến chân, nói:
- Đứng làm gì nhỉ, ngồi xuống cả đi!
Anh ta chỉ những ghế tựa bằng gỗ hoa lê bày xung quanh chân
tường, nói:
- Chàng rể thứ hai nhà bác ra vẻ đấy!
Anh ta ngồi xuống chiếc ghế tựa, hai tay ôm gối, nhìn chúng tôi
bằng ánh mắt châm biếm. Chị Cả ngồi phịch xuống ghế, đối diện
với anh ta qua chiếc bàn. Chị bĩu môi, nói:
- Thưa ông chính ủy, ông bắt tôi thì dễ nhưng thả tôi thì khó
đấy!
Chính ủy Tưởng cười:
- Khó khăn lắm mới mời được bà đến đây, sao lại thả?
Chị Cả nói:
- Mẹ cứ ngồi đây, xem họ dám làm gì chúng ta?
- Chúng tôi quả thật không định làm gì các vị. - Chính ủy Tưởng
nói: - Mời bác ngồi!
Mẹ bế Sa Tảo Hoa, ngồi xuống chiếc ghế ở xó nhà. Tôi và chị Tám
cầm vạt áo mẹ đứng bên ghế. Công tử nhà Tư Mã thì ngoẹo đầu trên
vai chị Sáu. Chị Sáu buồn ngủ đến nỗi người cứ lắc lư.
Mẹ kéo tay chị ngồi xuống ghế. Chính ủy Tưởng móc ra một điếu
thuốc lá, gõ gõ đầu thuốc lên móng tay cái rồi lục lọi các túi
rõ ràng là tìm diêm. Không thấy! Chị Cả cười nhạt, trong cái rủi
có cái may. Anh ta đến bên chiếc đèn, miệng ngậm điếu thuốc,
châm phía trên ngọn lửa. Anh ta nheo mắt, hít bập bập. Ngọn lửa
kéo dài trong chụp. Đầu điếu thuốc đỏ lên rồi bắt cháy. Anh ta
ngẩng lên, gỡ điếu thuốc trên miệng, ngậm miệng lại rồi tuôn
khói ra hai lỗ mũi. Bên ngoài thôn vọng lại tiếng mìn nổ cửa
kính rung leng keng, những đốm lửa nhảy múa trên không. Tiếng
gào khóc, tiếng quát tháo lúc gần lúc xa, lúc rõ mồn một. Chính
ủy Tưởng mỉm cười với thái độ khiêu khích, nhìn chị Lai Đệ.
Chị Lai Đệ như ngồi phải gai, nhấp nhổm trên ghế, đến nỗi cái
ghế kêu kèn kẹt. Mặt chị trắng nhợt, hai tay bám thành ghế run
bần bật.
- Đội kỵ binh của Lữ trưởng Lượng rơi vào trận địa mìn rồi! -
Chính ủy Tưởng ra vẻ tiếc rẻ, nói tiếp - Tiếc mấy chục con ngựa
quá!
- Các ông... đừng tưởng bở!
Chị Cả vịn ghế đứng dậy. Một loạt tiếng nổ dữ dội hơn, ấn chị
ngồi xuống. Chính ủy Tưởng đứng lên, thanh thản gõ gõ tấm ngăn
bằng ván gỗ giữa phòng xép với dại sảnh, làm như nói một mình:
- Toàn là thông dầu, ngôi nhà này dùng hết bao nhiêu gỗ? Anh ta
ngước nhìn chị Cả, hỏi: - Bà đoán xem, dùng hết bao nhiêu gỗ:
dầm xà, cửa ra vào, cửa sổ, sàn, ván thung, bàn ghế.
Chị Cả nhấp nhổm không yên. Phải cả một cánh rừng chứ chả chơi!
Chính ủy Tưởng xót xa, làm như cánh rừng bị chặt quang đang trải
ra trước mắt anh ta. Sớm muộn phải thanh toán chuyện này! - Nét
mặt rầu rầu, rồi quên phắt cánh rừng bị tàn phá, anh ta đi tới
trước mặt chị Cả, đứng dạng chân thành hình chữ A, tay phải
chống nạnh, khuỷu tay gập lại thành một góc nhọn. - Tất nhiên,
chúng tôi cho rằng Sa Nguyệt Lượng có khác với những kẻ cam tâm
làm Hán gian. Ông ta có một lịch sử chống Nhật rất vẻ vang. Nếu
ông ta quyết tâm sưa chữa sai lầm, chúng tôi vui lòng gọi ông ta
là đồng chí. Bà Lượng này, lát nữa chúng tôi bắt được ông ấy, bà
nên khuyên răn ông ấy một tí!
Chị Cả ngồi nhũn ra trên ghế, rít lên:
- Các ông không thể bắt được anh ấy! Tưởng bở! Xe Jeep Mỹ nhanh
hơn ngựa của các ông!
- Mong rằng như thế.
Chính ủy Tưởng nói. Anh ta bỏ tay xuống, hai chân cũng đổi thế
đứng. Anh ta rút một điếu thuốc dưa cho Lai Đệ. Lai Đệ co người
lại theo bản năng, chính ủy Tuởng đưa dấn theo. Lai Đệ vênh mặt
quan sát nụ cười khó hiểu trên khuôn mặt của chính ủy Tưởng. Chị
rụt rè giơ tay ra, bàn tay có những ngón ám khói thuốc, dùng hai
ngón tay kẹp điếu thuốc. Chính ủy Tưởng vẩy tàn điếu thuốc trên
tay, thổi phù một cái cho nó đỏ lên, rồi đưa tới trước mặt chị
Cả. Chị Cả lại vênh mặt lên, chính ủy Tưởng vẫn mỉm cười. Chị Cả
vội ngậm điếu thuốc, dướn về phía thuốc, châm lửa ở đầu diếu
thuốc trên tay chính ủy Tưởng. Tôi nghe rõ tiếng bập môi của
chị. Mẹ thẫn thờ nhìn bức tường, chị Sáu và cậu ấm nhà Tư Mã nửa
thức nửa ngủ, Sa Tảo Hoa không động cựa. Khói thuốc tỏa ra trên
mặt chị Cả. Chị ngửa mặt, người ngả về phía sau, tay buông
thõng. Ngón tay kẹp điếu thuốc ướtnhèm y hệt con cá trạch lôi ra
khỏi nước. Lứa ở đầu điếu thuốc bén rất nhanh về phía môi chị.
Đầu tóc rối bù, những nếp nhăn hằn hai bên mép, mắt thâm quầng.
Nụ cười tắt dần trên môi chính ủy Tưởng như giọt nước cạn dần
trên tấm thép nóng, từ xung quanh cạn vào giữa, cuối cùng còn
như một mũi kim, lóe lên một cái rồi biến mất. Anh ta quẳng mẩu
thuốc đã bén sát ngón tay, dùng chân đi cho tắt hẳn, rồi bước
những bước dài, đi ra.
Có tiếng hét to từ phòng khách bên cạnh vọng lại:
- Nhất định phải bắt sống Sa Nguyệt Lượng, dù hắn rúc vào hang
chuột cũng phải đào mà lôi ra!
Tiếp theo là tiếng đèn pin dằn mạnh xuống bàn.
Mẹ ái ngại nhìn chị Cả đang ngồi nhũn ra trên ghế như bị rút hết
xương, buộc tới cầm lấy những ngón tay ám khói thuốc của chị,
lắc đầu. Chị Cả tụt từ trên ghế xuống, quì trước mặt mẹ, miệng
lập bập như đang mút vú, những tiếng kêu kỳ quặc tuôn ra, lúc
đầu tôi tưởng chị cười, nhưng ngay lập tức tôi biết là chị khóc.
Chị quệt nước mắt nước mũi vào chân mẹ. Chị nói:
- Mẹ ơi, không có lúc nào là con không nhớ mẹ, nhớ các em...
Mẹ hỏi:
- Hối hận rồi ư?
Chị Cả do dự một thoáng, lắc đầu. Mẹ nói:
- Vậy là tốt, làm gì thì cũng do Chúa sắp dặt, hối hận là trái ý
Chúa!
Mẹ trao Sa Tảo Hoa cho chị, nói:
- Ngắm nó một lúc đi!
Chị Cả vuốt nhẹ khuôn mặt đen nhẻm của con bé, nói:
- Mẹ, nếu họ xử bắn con thì mẹ nuôi cháu cho con.
Mẹ nói:
Họ không bắn chết con thì mẹ vẫn nuôi con bé!
Chị Cả định trao lại bé Hoa cho mẹ, mẹ bảo:
- Hãy bế nó một tí, mẹ còn cho Kim Đồng ti sữa.
Mẹ bước tới bên ghế, vén áo lên. Tôi quì trên ghế ti vú mẹ. Mẹ
nâng tà áo, khom lưng xuống, nói:
- Bình tâm mà xét, tay Lượng không phải đồ tồi, chỉ riêng chuyện
những con thỏ treo trên cây, mẹ cũng phải nhận anh ta là con rể.
Nhưng anh ta không làm nên trò trống gì đâu, chỉ chuyện mấy con
thỏ, mẹ biết anh ta không làm nên trò trống gì. Gộp cả hai đứa
cũng không địch nổi lão Tưởng. Lão là loại thâm hiểm, mát nước
thối đá.
Nhớ lại khi trước, những con thỏ treo đầy các cây trong vươn
khiến mẹ tức điên lên. Vậy mà trong khoảnh khắc, chính những con
thỏ đó lại là lý do để mẹ nhận Sa Nguyệt Lượng là con rể. Và
cũng vẫn những con thỏ đó, là cơ sở để mẹ đoán chắc Sa Nguyệt
Lượng sẽ thua chính ủy Tưởng.
Vào lúc tranh tối tranh sáng trước bình minh, một đàn chim thước
đi bắc cầu trên sông Ngân trở về đậu trên nóc nhà, kêu chiêm
chiếp vì mệt mỏi. Lũ chim thước làm tôi thúc giấc. Tôi nhìn thấy
mẹ bồng Sa Tảo Hoa ngồi trên ghế, còn tôi thì ngồi trên đầu gối
lạnh ngắt của chị Lai Đệ Chị ôm chặt eo tôi bằng hai cánh tay
thanh mảnh của chị. Chị Sáu và công tử nhà Tư Mã ngủ gối đầu lên
nhau. Chị Tám ngồi tựa bên mẹ như cũ. Cặp mắt mẹ vô cảm, hai mép
trễ xuống chúng tỏ đã quá mệt mỏi.
Chính ủy Tưởng bước vào đưa mắt nhìn chúng tôi, nói:
- Bà Lượng, có đi thăm ông Lượng một chút không?
Chị Cả đẩy tôi ra, đứng phắt dậy, giọng khản di:
- Ông nói láo?
Chính ủy Tưởng chau mày, nói:
- Láo hả? Vì sao tôi phải nói láo kia chứ? - Anh ta bước tới bên
bàn, cúi xuống thổi tắt ngọn đèn. Những tia nắng lập tức ùa vào
phòng. Anh ta ngả tay ra, lễ phép - chưa hẳn là lễ phép mời. -
Xin mời, vẫn chỉ một câu thôi, chúng tôi không muốn bịt chặt tất
cả các ngả đường. Nếu ông Lượng quay lại thì có thể cho ông giữ
chức đại đội phó đại đội bộc phá.
Chị Cả bước ra như một cái máy, ra đến cửa, chị quay lại nhìn
mẹ. Chính ủy Tưởng nói:
- Bác có thể đi cùng, cả các em bé nữa.
Chúng tôi đi qua rất nhiều lần cửa nhà Tư Mã, qua những sân
trong mà sân nào cũng giống sân nào. Đi qua năm lớp sân, chúng
tôi nhìn thấy ở sân chính có nhiều thương binh, cô Đường đang
băng bó cho một thương binh bị thương ở chân. Chị Năm Phán Đệ
đang phụ với cô Đường. Chị chăm chú đến nỗi không phát hiện ra
chúng tôi. Mẹ nói nhỏ với chị Cả:
- Đó là em Năm của con.
Chị Cả liếc nhìn chị Năm. Chính ủy Tưởng nói:
- Chúng tôi đã phải trả giá quá đắt! Sân trong thứ sáu có kê một
bộ ván trên đặt cái xác, che mặt bằng miếng vải trắng. Chính ủy
Tưởng nói:
- Đại đội trưởng Lỗ của chúng tôi đã anh dũng hi sinh, tổn thất
không thể lường được.
Anh ta lật miệng vải, chúng tôi trông thấy một khuôn mặt chữ
điền, râu quai nón, đầy máu. Anh ta nói:
- Các chiến sĩ chỉ muốn lột da Sa Nguyệt Lượng, nhưng chính sách
không cho phép. Bà Lượng này, sự chân thành của chúng tôi có lẽ
trời đất quỉ thần cũng phải cảm động chứ nhỉ? Qua sân trong thứ
bảy, vòng qua một bức tường làm bình phong, chúng tôi đã đứng ở
cổng nhà Phúc Sinh Đường, trên bậc tam cấp.
Trên đường phố, những binh sĩ của đại đội bộc phá chạy đi chạy
lại như kiến vỡ tổ. Mặt người nào người ấy lấm đầy bụi đất. Mười
mấy binh sĩ dắt mười mấy con ngựa dọc theo phố đi từ dông sang
tây. Có mấy binh sĩ chỉ huy mấy chục người dân, dùng dây thùng
kéo một chiếc xe Jeep đi ngược lại từ tây sang đông. Hai tốp gặp
nhau ở cổng nhà Phúc Sinh Đường, hai người có vẻ như tiểu đầu
mục cùng chạy lên, cùng đứng nghiêm, cùng giơ tay chào, cùng báo
cáo lên chính ủy. Một người báo cáo thu được mười ba con ngựa.
Một người báo cáo tịch thu được một chiếc xe Jeep, đáng tiếc là
bị vỡ két nước, đành cho trâu kéo về. Chính ủy Tưởng nhiệt liệt
biểu dương họ. Trong khi biểu dương, các binh sĩ đứng ưỡn ngực,
mắt sáng lên.
Chính ủy Tưởng dẫn chúng tôi đến cổng nhà thờ. Hai bên cổng có
mười sáu binh sĩ bồng súng đứng gác. Tưởng giơ tay, đám lính gác
đứng nghiêm, bồng súng chào. Đám phụ nữ trẻ con chúng tôi nghiễm
nhiên trở thành những vị tướng đi quan sát chiến trường.
Có khoảng sáu mươi tù binh quân phục xanh chen chúc ở góc dông
nam trong sân nhà thờ, trên đầu họ là những tấm liếp bị hư hỏng
vì nước mưa, mọc đầy nấm. Trước mặt họ là bốn binh sĩ xếp hàng
ngang, tay cầm tiểu liên, tay trái nắm băng đạn cong cong như
sừng trâu, tay phải dặt trên báng súng bóng mịn như đùi phụ nữ,
ngón tay trỏ lồng vào lẫy cò như chiến lưỡi vịt. Họ quay lưng về
phía chúng tôi. Sau lưng họ là một đống thắt lưng bằng da bò
trông như những con rắn chết. Các tù binh muốn đi lại, phải hai
tay giữ cạp quần.
Một nét cười thoáng qua trên nét mặt chính ủy Tưởng. Anh ta húng
hắng ho, có lẽ để gây sự chú ý. Các tù binh uể oải ngẩng đầu
nhìn chúng tôi. ánh mắt họ chợt lóe lên, có người chớp một cái,
người hai cái, người ba cái, người bốn năm cái, người nhiều nhất
không quá chín cái Những ánh mắt lạ lùng đó là do sự có mặt của
chị Lai Đệ, nếu như chị đúng như lời chính ủy Tưởng, là một nửa
của Sa Nguyệt Lượng trong công tác chỉ huy bộ đội. Không rõ do
một tình cảm nào đó chi phối, chị Cả đỏ hoe mắt, mặt trắng nhợt,
đầu cúi gập xuống ngực. Những tù binh này khiến tôi phảng phất
nhớ lại những con lừa đen của đội Hỏa-mai. Họ tụ tập trong nhà
thờ này, và cũng thích cái góc này. Hai mươi tám con lừa ghép
thành mười bốn cặp, con nọ gặm yêu mông con kia, chăm sóc cho
nhau, yêu mến lẫn nhau, giúp đỡ lân nhau. Một đội lừa đoàn kết
thân mật đã bị diệt ở nơi nào? Ai đã diệt đội lừa? Bị diệt ở núi
Tai Ngựa bởi đội du kích của Tư Mã Khố, hay ở gò Khuỷu Tay bởi
đội Tiện Y Nhật Bản? Trong cái ngày thiêng liêng làm lễ rửa tội
cho tôi, mẹ bị cưỡng hiếp. Chúng là những tên lính quân phục
xanh của đội Hỏa-mai, là kẻ thù của tôi. Giờ đây, nhân danh Cha,
Con và thánh thần, phải trừng phạt chúng, A men!
Chính ủy Tưởng dọn giọng, nói:
- Các anh em lữ đoàn Sa Nguyệt Lượng, đã đói chưa?
Các tù binh lại ngẩng lên, có người định trả lời nhưng không
dám, có người không thèm trả lời. Một vệ binh đứng bên cạnh
chính ủy Tưởng nói:
- Các ông trẻ, điếc cả rồi hay sao? Chính ủy đại đội hỏi các
người đấy!
- Không được mắng người ta!
Chính ủy Tưởng khiển trách nghiêm khắc anh vệ binh. Anh vệ binh
đỏ mặt, cúi đầu xuống. Tưởng nói:
- Các anh em, biết anh em vừa đói vừa khát, người nào mắc bệnh
dạ dầy chắc đang đau hoa cả mắt, lạnh cả sống lưng. Hãy kiên
nhẫn, cơm sắp có rồi. ở đây điều kiện thiếu thốn, chẳng có gì
ngon, tạm nấu nồi cháo đậu xanh để anh em ăn cho đỡ đói, đỡ
khát. Buổi trưa chúng ta ăn màn thầu bằng bột mì trắng, rau phỉ
xào thịt ngựa.
Các tù binh tỏ vẻ vui mừng, vài người còn mạnh dạn nói chuyện
riêng với nhau.
Chính ủy Tưởng nói:
- Ngựa chết nhiều lắm, toàn là ngựa tốt, rất tiếc, các anh đã sa
vào bãi mìn của chúng tôi! Lát nữa thịt ngựa mà các anh ăn, rất
có thể là con ngựa mình cưỡi. Nói rằng lừa ngựa là quân tử,
những dù sao vẫn là lừa ngựa, các bạn cứ ăn thỏa thích, con
người là chúa tể mà lại!
Đang nói chuyện ngựa thì hai người lính già khênh một thùng to
từ ngoài cổng đi vào, vừa đi vừa hò nhường đường. Hai chú lính
trẻ bê hai chồng bát to tướng cao đến tận cằm, chệnh choạng bước
theo sau.
- Cháo đây, cháo đây? Người lính già hét to, làm như có ai cản
đường không bằng. Chú lính trẻ ôm chồng bát trước bụng, loay
hoay tìm chỗ đặt xuống. Hai người lính già cùng nhún thấp xuống,
khi cái thùng chạm đất thì họ cũng vừa vặn ngồi xổm. Hai chú
lính trẻ vẫn giữ cho thân ở tư thế thẳng đuỗn đồng thời khuỵu
hai chân, đặt chồng bát xuống nền nhà, rồi loạng choạng đứng
dậy, lấy tay áo lau mồ hôi trên mặt.
Chính ủy Tưởng cầm lấy chiếc môi lớn bằng gỗ, khuấy cháo cho
đều, hỏi người lính già:
- Cho đường đỏ chưa?
Người lính già nói:
- Báo cáo chính ủy, không kiếm được đường đỏ, phải lấy đường
trắng của nhà họ Tào. Bà cụ nhà họ Tào tiếc của, cứ ôm chặt cái
hũ, không bỏ tay ra...
- Được, chia cháo đi - Chính úy vừa nói vừa đặt cái môi xuống,
rồi như chợt nhớ ra, quay lại sốt sắng hỏi chúng tôi: - Nên
chăng mỗi người làm một bát?
Chị Cả lạnh nhạt:
- Ông chính ủy mời chúng tôi đến đây, chắc không phải đến để ăn
cháo?
Mẹ nói:
- Sao lại không ăn? Bác Trưởng, cho mẹ con chúng tôi mấy bát!
Chị Cả nói:
- Mẹ cẩn thận thuốc độc!
Chính ủy Tưởng cười lớn, nói:
- Bà Lượng tưởng tượng phong phú quá đấy?
Anh ta múc một môi đầy giơ lên rồi từ từ rót xuống để mọi người
thấy cháo ngon như thế nào. Mùi thơm tỏa ra xung quanh. Anh ta
đặt cái môi xuống, nói:
- Cháo này đã bỏ vào hai gói thạch tín, hai gói thuốc chuột, ăn
vào bụng, đi năm bước đứt ruột đứt gan, đi bảy bước thất khiếu
chảy máu, có ai dám ăn không nào?
Mẹ bước tới cầm bát lên, dùng ống tay áo lau sạch bụi đất, rồi
cầm môi múc đầy bát cháo, đưa cho chị Cả. Chị Cả không cầm. Mẹ
nói:
- Vậy mẹ ăn bát này.
Mẹ thổi phù phù, húp thử một ít, rồi húp nhiều hon. Mẹ múc ba
bát nữa, đưa cho chị Sáu chị Tám và cậu ấm nhà Tư Mã.
Các tù binh nói:
- Múc cho chúng tôi, múc cho chúng tôi, độc hay không độc cũng
xin ba bát.
Hai lính già cầm môi, hai lính trẻ đưa bát, bát nọ tiếp bát kia.
Những chú lính cầm súng đứng dạt sang một bên, chênh chếch với
chúng tôi. Chúng tôi nhìn được mắt họ. Mắt họ chỉ nhìn đám tù
binh. Cái tù binh đứng cả dậy, tự động xếp thành hàng, một tay
giữ quần, một tay buông thõng, đợi đến lượt. Người nào đã có bát
cháo trong tay thì hết sức thận trọng, sợ ngón tay bị bỏng. Các
tù binh, người nọ tiếp người kia, tay giữ quần, tay bê bát cháo
đi vòng xuống phía sau, ngồi xuống, bê cháo bằng cả hai tay, vừa
thổi vòng quanh vừa húp. Người nào có kinh nghiệm thì húp từng
người nhỏ, húp người to là bỏng miệng. Cậu ấm nhà Tư Mã chưa có
kinh nghiệm, húp ngay một người to, nhổ ra không được, nuốt vào
không trôi, bỏng đến nỗi nước mắt ràn rụa. Một tù binh khi đưa
tay ra nhận bát cháo, khẽ gọi:
- Chú dượng ơi!
Người lính già cầm môi ngẩng lên nhìn.
- Chú dượng không nhận ra cháu sao? Cháu là Xương đây mà!
Người lính già đập cái môi vào mu bàn tay chú tù binh, mắng:
- Ai là chú dượng của mày? Lầm rồi! Ta không có thằng cháu nào
làm Hán gian, mặc quân phục xanh cả!
Tù binh Xương ái một tiếng, bát cháo đổ ụp xuống bàn chân, anh
ta lại ái một tiếng nữa, vội bỏ tay giữ quần để xoa chân bị
bỏng, cái quần tụt xuống đến đầu gối, để lộ chiếc quần lót đen
bẩn, anh ta lại ối một tiếng, hai tay xốc quần lên. Khi anh ta
đứng thẳng người lên, hai mắt đã mọng nước.
- Lão Trương, phải có kỷ luật chứ - Chính ủy Tưởng nổi giận - Ai
cho phép lão đánh tù binh? Báo cho quân pháp, phạt giam ba ngày
bây giờ?
Lão Trương lầu bầu:
- Nó dám bảo tôi là chú dượng nó!...
Chính ủy Tưởng nói:
- Lão đúng là chú dượng nó, úp mở mà làm gì?
Động viên nó tham gia đội bộc phá của ta! Chú em, bỏng ra sao?
Lát nữa y tá đến, bôi tí thuốc mỡ 202 là khỏi. Cho chú ta bát
khác, thêm ít đậu vào! Chú lính rủi ro được bát cháo ưu đãi, tập
tễnh lui về phía sau. Những người khác nhích lên.
Giờ đây, tất cả tù binh đều đang ăn cháo, tiếng húp soạn soạt
vang lên đây đó. Hai người lính già và hai chú lính trẻ tạm thời
không có việc làm. Chú lính trẻ liếm môi, chú kia nhìn chúng tôi
chằm chằm. Bác lính già dùng môi vét đáy thùng vì không biết làm
gì, còn bác kia thì lấy túi thuốc và tẩu ra định hút thuốc. Tôi
lợm giọng đẩy bát cháo ra. Cái miệng của tôi không quen với bất
cứ thứ gì, trừ bầu vú của mẹ.
Chị Cả hừ lên một tiếng bằng giọng mũi, chính ủy Tưởng nhìn chị,
nét mặt chị cũng biểu lộ sự khinh miệt cực dộ. Chị nói:
- Tôi cũng nên húp một bát chứ nhỉ?
Chính ủy Tưởng nói:
- Nên quá đi chứ, bà nhìn lại khuôn mặt bà xem, như một quả cà
héo! Lão Trương, múc cho bà Lượng một bát, đặc đặc vào!
Chị Cả nói:
- Tôi thích loãng.
Chính ủy Tưởng nói:
- Loãng đấy!
Chị Cả bê bát cháo, húp một ngụm, nói:
- Có đường thật, chính ủy Tưởng, tôi khuyên ông cũng nên húp một
bát, ông nói nhiều thế chắc khô cả cổ?
Chính ủy Tưởng nắn nắn cổ họng, nói:
- Đúng là hơi khát. lão Trương, cho tôi một bát, loãng thôi nhé!
Chính ủy Tưởng bưng bát cháo, cùng chị Cả thảo luận về các loại
đậu. Anh ta kể rằng, ở quê anh ta có giống đậu xanh, đun sôi lên
là nhuyễn thành bột, không như đậu xanh ở đây, phải ninh đủ hai
tiếng đồng hồ mới nhuyễn. Hết chuyện đậu xanh lại bàn sang đậu
vàng. Con người này như một chuyên gia về đậu. Hết tất cả các
loại đậu chính ủy Tưởng chuyển sang bàn về lạc, nhưng vừa chuyển
đê tài, chị Cả quăng cái bát xuống đất, hỏi:
- Anh Tưởng, anh chơi cái trò gì vậy?
Tưởng mỉm cười, nói:
- Bà Lượng, bà đa nghi quá! Ông nhà chắc sốt ruột vì chờ đợi
rồi!
- Anh ấy ở đâu? - Chị Cả hỏi mỉa.
Tưởng nói:
- Tất nhiên là ở nơi mà các vị không thể quên!
Trước cổng nhà tôi, lính đứng gác còn nhiều hơn ở nhà thờ.
Ngay ở của vào chái đông còn một trạm gác nữa. Người trực gác là
Tôn Bất Ngôn. Hắn ngồi trên khúc gỗ tròn dưới chân tường đùa
nghịch thanh đao trong tay, Tiên Chim ngồi vắt vẻo trên chạc cây
đào, tay cầm quả dưa chuột gặm từng tí một.
- Vào đi - Chính ủy Tưởng bảo chị Cả - Cố gắng khuyên ông ta,
chúng tôi mong rằng, ông ta sẽ trở về với chính nghĩa.
Chị Cả bước vào trong chái đông, rú lên một tiếng. Chúng tôi
chạy ùa vào: Sa Nguyệt Lượng treo cổ trên xà nhà. Anh ta mặc bộ
quân phục bằng dạ xanh, chân đi ủng thúc ngựa bằng da bò bóng
loáng. Trong trí nhớ của tôi anh ta không cao lắm, nhưng giờ đây
trông anh ta dài thượt. |
|