Mùa đông năm nay, Hạ Lỗi đến Đại Lý thế là
chẵn một năm. Anh kịp xây dựng một ngôi nhà nhỏ của mình, một
mảnh vườn nhỏ, bức tường "chiêu bích", thuyền đánh cá và dụng
cụ săn bắn của mình... Anh dường như toàn biến thành một người
tộc Bạch.
Anh cùng người tộc Bạch trở nên thân mật không thể tách rời.
Khi anh xây dựng ngôi nhà nhỏ, cả nhà Tắc Vi và người tộc Bạch
đều tham gia. Mọi người giúp anh trộn vữa xây gạch, chạm trổ
cửa lầu. Khi anh đóng chiếc thuyền nhỏ, người tộc Bạch cũng
giúp anh tìm gỗ đóng thuyền, còn vì anh làm lễ hạ thủy thuyền.
Tắc Vi vì anh dệt lưới đánh cá, Đao Oa đưa đến cả bộ đồ câu.
Để biểu thị sự bái phục đối với anh, Tắc Vi còn đưa đến cung
tên và những dụng cụ săn bắn, hoan nghênh "vị thần bản chủ"
này ở lâu đài tại đây. Về chuyện xưng hô "thần bản chủ" giữa
anh với người tộc Bạch, dù cho anh có cố gắng giải thích thế
nào họ cũng không sáng ra được, càng nói họ càng mù mờ. Nhất
định có một lần, anh cố sức khắc phục thói mê tín của người
Tộc Bạch, cứu cho hai đưa trẻ sinh đôi... Người tộc Bạch cho
rằng, thai sinh đôi là đắc tội với thiên thần, cần phải đem
hai đứa trẻ đó tế trời, nếu không trời sẽ giáng tai ương xuống
cho dân chúng. Hạ Lỗi dùng sức mạnh của sinh mệnh mình bảo vệ
cho hài nhi khỏi bị hại, bởi anh là thân bản chủ nên mọi người
mới nửa tin nửa ngờ. Cha mẹ hai đứa hài nhi ấy vô cùng biết ơn
Hạ Lỗi. Trại ba phục cả từ lòng dạ đến lý lẽ, nhất tâm nhất y
muốn học pháp thuật của "thần bản chủ". "pháp lực" của vị "thần
bản chủ" này, cứ một đồn mười, mười đồn trăm, xa gần nức tiếng.
Hạ Lỗi biết muốn trừ bỏ sự mê tính của người tộc Bạch, không
phải là việc một sớm một chiều, anh không vội, vẫn còn có thời
gian. Anh bắt đầu dạy người tộc Bạch nhận mặt chữ, bồi đắp cho
họ tri thức về y học, đem phương pháp khoa học mình đã học
được ở trường áp đụng vào việc chăn nuôi và trồng trọt. Thu
hoạch hết sức chậm chạp, nhưng đã thấy hiệu được hiệu quả.
Người tộc Bạch ngày càng kính phục anh. Họ sợ nhất là "thần
bản chủ" một ngày kia sẽ bỏ họ mà đi. Họ cũng tỏ ra quan tâm
tới việc "bản chủ thần" vẫn không có một vị "bản chủ thần
nương nương". Các cô gái tộc Bạch đều hát hay múa đẹp, cũng
thường thường "túi thêu hoa sen" lên tặng cho Hạ Lỗi, chỉ có
điều vị thần bản chủ này không hiểu sao lại không màng đến
chuyện tình cảm. Tắc Vi cận kề lâu nay bên Hạ Lỗi, dường như
anh không có cách nào chiếm được trái tim anh.
Một hôm Hạ Lỗi cùng Tắc Vi đi câu cá ở Nhĩ Hải. Bỗng nhiên
trên trời cuốn mây đùn, xuất hiện một lớp mây sà thấp che ánh
mặt trời đi. Tắc Vi ngẩng đầu nói rành rọt:
- Anh xem, kia là mây Vọng Phu!
- Cô nói cái gì? Cô nói cái gì? Hạ Lỗi chấn động nhìn trừng
trừng Tắc Vi.
- Mây Vọng Phu - Tắc Vi hoang mang bối rối, nhìn Hạ Lỗi, không
hiểu sao anh lại khích động như vậy. Cô lấy ngón tay chỉ lên
không - Thứ mấy này là "mây Vọng Phu?" Rất nổi tiếng của Đại
Lý chúng tôi đấy.
- Mây Vọng Phu? Hạ Lỗi kinh ngạc khôn xiết. Sao lại gọi là "mây
vọng phu"
- Đám mây này là từ một người đàn bà biến ra! Tắc Vi mở cặp
mắt đen, từ tốn giải thích - Mỗi khi mây Vọng Phu xuất hiện
thì sắp có gió lớn, gió sẽ thổi rẽ nước Nhĩ Hải, lộ ra một con
la bằng đá ở trong đó! Bởi vì con la đó, là chồng của người
đàn bà!
Hạ Lỗi ngây người ra nhìn Tắc Vi, lòng lâng lâng với những kỷ
niệm ngày xưa...
- Chuyện này xảy ra hơn một nghìn năm về trước. Người đàn bà
đó là con gái của vua Nam Chiếu. Tắc Vi nói tiếp Công chúa từ
nhỏ được hứa gả cho một vị tướng quân. Nhưng cô lại yêu một
người đi săn ở Thương Sơn mười chín ngọn. Bất kể sự phản đối
của gia đình, cô cùng người thợ săn kết làm vợ chồng và cùng
sống ở trong một hang núi. Vua Nam Chiếu giận quá, liền mời
một pháp sư đến làm phép, đánh người thợ săn rớt xuống Nhĩ Hải,
biến thành một khối đá. Chúng tôi gọi khối đá là con la đá.
Công chúa đau buồn lâm bệnh rồi chết trong hang núi ấy. Sau
khi chết, cô hóa thành một vầng mây, bay đến phía trên Nhĩ Hải,
dẫn tới cuồng phong, thổi rẽ Nhĩ Hải ra, cho tới khi nhìn thấy
con la đá đó mới thôi! Đó là "mây vọng phu" mà ở vùng chúng
tôi ai ai cũng biết!
Hạ Lỗi không tin nổi ngẩng đầu nhìn trời, lại nhìn Nhĩ Hải,
lại ngẩng đầu nhìn trời, tâm trạng hết sức hoang mang. Anh nói
như than thở:
- Tôi nghĩ là tôi đã từ núi Vọng Phu chạy thoát! Sao lại còn
có mây Vọng Phu? Sao lại như thế được?...
- Ấy ấy! Tắc Vi kêu to - Anh đừng động mạnh, thuyền sắp lật
rồi! Thật đấy, thuyền sắp lật rồi!...
Tắc Vi vừa đứt lời thì thuyền lật thật. Hạ Lỗi cùng Tắc Vi rơi
xuống nước. Ngay cả một xâu cá buộc trên thuyền, cũng theo đó
mà trở về Nhĩ Hải. May mà Tắc Vi rất quen với nước, lôi Hạ Lỗi
bơi vào bờ. Hai người ướt lướt thướt, nước rỏ ròng ròng, lạnh
đến nỗi răng đánh vào nhau cầm cập. Tắc Vi chăm chú nhìn vẻ
hoảng hốt của Hạ Lỗi. Đột nhiên nhịn không nổi, cô cười phá
lên:
- Té ra là thần bản chủ không biết bơi! Tôi cứ nghĩ thần bản
chủ thì cái gì cũng làm được!
- Tôi đã nói với cô hàng trăm lần rồi, tôi không phải là...
- Thần bản chủ! Tắc Vi vội tiếp. Nói xong, cô nhanh nhẹn chạy
đi lượm cành cây để nhóm lửa sưởi ấm cho cá hai người
Trong lúc ngồi sưởi ấm bên ngọn lửa, Hạ Lỗi đã kể cho Tắc Vi
nghe về họn Vọng Phu và Mộng Phàm. Đây là lần đầu tiên anh kể
cho Tắc Vi nghe.
- Bây giờ tôi mới biết ý nghĩa của hai chữ Mộng Phàm! Cô cảm
động tiếng nói nghẹn ngào. Đột nhiên, nhiệt tình bốc lên, cô
đưa tay ra nắm chặt lấy tay Hạ Lỗi, sôi nổi nói - Hòn Vọng Phụ
của anh xa xôi tậm phương bắc, bây giờ anh ở phương nam, lìa
nơi đó càng xa càng xa, phải vậy không? Đừng nghĩ ngợi nữa,
đừng thương tâm nữa... Tôi... hát điệu tử cho anh nghe nhé! Cô
liền cất giọng hát trong trẻo và uyển chuyển:
Đường lớn cũng một đường
Đường nhỏ cũng một đường,
Đường lớn đừng nhỏ tùy anh lựa,
Đường lớn thênh thang ra cửa thành,
Đường nhỏ khuất khúc quanh co qua cầu nhỏ.
Qua cầu nhỏ, đến sườn non,
Đường lờn đường nhỏ đều một đường
Đi tới đi lui thì cũng vậy,
Kia hoa tựa cửa thêu túi sen,
Thêu túi sen đeo lưng chàng,
Túi sen may cho đều,
Đường chỉ quấn cho đều,
Quấn chặt lòng chàng, chẳng rẽ nhau...
Điệu tử hát được một nửa, Đao Oa đi dọc theo bờ, tìm đến nơi.
- Các người nhóm lửa làm gì? Nướng cá ăn à?
- Cá? Hạ Lỗi lúc này mới nhớ ra, quay đầu nhìn - Hỏng rồi, cá
rơi cả xuống nước hết rồi!
- Cá rơi cả xuống nước? Đao Oa nhìn Tắc Vi, lại nhìn Hạ Lỗi, -
Cả hai người cũng rơi xuống nước có phải không?
- Đúng vậy, chúng tôi ở trên thuyền chuyện vãn, tôi bỗng đứng
lên... thuyền không hiểu sao lại lật...
Không giải thích còn đỡ, giải thích một cái lại càng mờ ám.
Đao Oa chưa nghe xong đã đẩy vẻ cười cợt, tay múa chân nhảy,
miệng líu lo:
- Hay, hay! Các người rơi cả xuống nước, rồi ngồi ở đây hong
quần áo, hát điệu tử, hay! hay! Các người cứ hong quần áo, hát
điệu tử tiếp đi, tôi về nhà đây...
Đao Oa vừa kêu vừa chạy như bay đi.
- Đao Oa! Đao Oa! Hạ Lỗi vội kêu.
Nhưng Đao Oa đã không còn thấy hình bóng đâu nữa. Anh không
biết làm thế nào, quay đầu lại nhìn thấy Tắc Vi đôi mắt rất
sáng vì ánh lửa hắt vào và khuôn mặt ửng đỏ như say rượu.
Tối hôm đó, cha mẹ Tắc Vi mang một tấm da dê thuần trắng đến
nhà nhỏ của Hạ Lỗi. Hai người điều cười đến cả không khép nổi
miệng:
- Đây là tấm da dê của hồi môn của Tắc Vi. Chúng tôi đã lựa
chọn nó lâu rồi. Đó là từ một ngàn con dê trắng chọn ra. Anh
xem, một sợi lông tạp cũng không có! Cha Tắc Vi nói:
- Những sính lễ "tám bát lớn" đều miễn! Anh từ nơi xa đến
chúng đòi hỏi gì cả! Tất cả lễ tiết theo quy cũ, nhà gái chúng
tôi lo liệu hết! Mẹ Tắc Vi nói "Điêu mai" đã sao tấm xong rồi,
còn như "đằng cơ" tức là mũ của cô dâu, cũng đã chế xong từ
lâu rồi!
- Hôn lễ định vào mồng ba tháng giêng, là ngày tốt! Bà con ở
tám thôn chín trại gần đây đều có mặt. Chúng tôi phải làm cho
hai người một đám cưới kiếu tộc Bạch to nhất! Mọi người ca
hát, nhảy múa, uống rượu, vui ba ngày ba đêm.
Cha Tắc Vi nói.
- Anh không phải lo gì cả, cứ việc làm tân lang đi! Mình anh
từ trên chí dưới, mặc gì đội gì, đều do chúng tôi may sắm. Tôi
cam đoan với anh, hai người sẽ là tân lang và tân nương bảnh
bao nhất của tộc Bạch!
Hạ Lỗi bị động đứng lên, mở mắt rất to. Đó là ý trời chăng?
Mình phải đi xa xôi đến Đại Lý, mới tìm được một nửa của mình?
Trước đây ở Bắc Kinh mũ lọng san sát, chỉ thấy mình ôm bầu
nhiệt huyết suông. Ngày nay đến Đại Lý, chốn Đào nguyên ngoài
đời, mới phát hiện ra ý nghĩa của "cuộc sống". Anh nhớ lại năm
nào đó, từng nói với Khang Bỉnh Khiêm:
- Chưa biết chừng tôi gặp một cô gái thôn quê, cũng là hạnh
phúc một đời rồi!
Anh chăm chú nhìn hai người già đang hớn hở, đưa tay từ từ đỡ
lấy tấm da dê trắng. Cái ấm áp trên da trên, khiến anh bỗng
nhớ lại rất lâu trước đây anh cũng từng có cảm giác như thế từ
con gấu đồ chơi. Con gấu nhỏ ấy tên là Song song. Tim anh bỗng
quặn thắt. Không, qua rồi! Chuyện rất lâu về trước đều qua cả
rồi! Anh cầm tấm da dê rồi ôm chặt vào ngực. |
|